Bản án 38/2019/HS-ST ngày 31/07/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIÊN LƯƠNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 38/2019/HS-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 31 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Bùi Phước T sinh năm 1984, nơi sinh: Huyện C tỉnh H. Nơi đăng ký thường trú: Khu phố 3, phường Đ, thành phố H , tỉnh K; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn  sinh năm 1963 và bà Đinh Thị Tuyết M sinh năm 1962; Anh chị em ruột: 03 người lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 1988; Vợ: Lâm Ngọc O sinh năm 1983; Con: 02 người lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2008; Tiền sự: Không, Tiền án: Không; Nhân thân: Tốt; Tạm giữ từ ngày 26/4/2019 đến ngày 04/5/2019 (Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên Tòa).

* Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

- Bà Huỳnh Kim H sinh năm 1979 (vợ bị hại Hà Văn D đã chết) (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp L, xã K, huyện K, tỉnh K

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Phạm Văn N sinh năm 1976 (Có mặt)

Địa chỉ: Khu phố 1, phường T, thành phố H, tỉnh K

2/ Lê Hoàng T sinh năm 1974 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ 9, khu phố C, thị trấn K, huyện K, tỉnh K.

Ngưi làm chứng:

1/ Lê Phước D sinh năm 1976 (Có mặt).

Địa chỉ: Tổ 4, ấp K, xã K, huyện K, tỉnh K

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 05 giờ 20 phút, ngày 26/4/2019 Bùi Phước T điều khiển xe ôtô tải biển kiểm soát 68C-079.70 chở khoảng 3,7 tấn cá phân từ thành phố H đến huyện Ch, tỉnh K (T là tài xế chở hàng thuê cho anh Phạm Văn N). Đến khoảng 6 giờ 30 phút cùng ngày T điều khiển xe ôtô tải trên tuyến quốc lộ 80 theo hướng H - Rạch Giá, khi xe ôtô lưu thông đến đoạn đường Km176 + Km177 thuộc tổ 04, ấp Kiên Sơn, xã Kiên Bình, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. Trong lúc T điều khiển xe lưu thông ở giữa đường thì phát hiện có xe môtô chạy ngược chiều nên T đánh lái về bên phải, do không giữ khoảng cách an toàn nên xe ô tô đã đụng vào xe môtô biển kiểm soát 68K1-122.38 do ông Hà Văn D đang điều khiển lưu thông cùng chiều phía trước, làm ông D ngã xuống đường và bị xe ôtô của T cán qua người, còn xe môtô của ông D thì văng sát vào lề đường bên phải. Sau khi gây tai nạn T xuống xe cùng với người dân đưa ông D lên xe ôtô tải của T chở đến bệnh viện nhưng ông D đã tử vong, lúc này T đến Công an huyện Kiên Lương đầu thú.

* Vật chứng vụ án thu giữ:

- 01 (một) xe ôtô biển kiểm soát 68C - 079.70 số khung R75LH7A02307, số máy 4HK1543033, nhãn hiệu ISUZU, màu sơn trắng, xe đã qua sử dụng.

- 01 (một) xe môtô biển kiểm soát 68K1-122.38, số khung C100M0436116, số máy 100ME0436116, nhãn hiệu HONDA, màu sơn nâu, xe đã qua sử dụng. (Các vật chứng trên đã trao trả cho chủ sở hữu).

* Tại bản kết luận giám định pháp y tử thi số: 305/KL-KTHS ngày 03/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, kết luận đối với ông Hà Văn D:

- Hai lỗ mũi chảy máu; Hai lỗ tai chảy máu; Gãy kín 1/3 giữa xương cánh tay phải; Tụ máu dưới da, cơ vùng ngực; Gãy cung bên xương sườn số 7, 8 bên phải;

Gãy cung trước và cung bên xương sườn số 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 bên trái; Phổi trái và phải tụ máu, dập rách. Khoang màng phổi hai bên có khoảng 200ml máu loãng; Tự máu và dập rách cơ bụng; Gan tụ máu; Lách không tổn thương; Dập rách thận trái; Gãy lìa cột sống thắt lưng L2 – L3; Gãy phức tạp xương chậu bên trái.

Nguyên nhân dẫn đến Hà Văn D tử vong: Sốc do đa chấn thương.

Ti bản cáo trạng số 36/CT-VKSKL, ngày 16/7/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiên Lương đã truy tố bị cáo Bùi Phước T về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự 2015.

Ti phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận hành vi của bị cáo Bùi Phước T có đủ các yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự và khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự (Sửa đổi bổ sung năm 2017), do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt có nơi cư trú rõ ràng , đã đưa bị hại đi cấp cứu và ra đầu thú do đó đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điều 65 Bộ luật hình sự để phạt tù bị cáo nhưng cho hưởng án treo cũng đủ răn đe phòng ngừa, vì vậy đại diện Viện Kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử để xử phạt bị cáo Bùi Phước T với mức án đề nghị từ 1 đến 2 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thửa thách từ 2 đến 4 năm.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bị cáo và gia đình đã bồi thường xong cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 250.000.000đ (chủ xe là anh Phạm Văn N đã bồi thường 220.000.000đ, bị cáo đã bồi thường 30.000.000đ và gia đình bị hại không có yêu cầu gì thêm).

* Xử lý vật chứng: Vật chứng đã trao trả cho chủ sở hữu nên miễn xét.

Ý kiến của người đại diện hợp pháp của người bị hại: Vấn đề bồi thường thì bị cáo đã bồi thường xong không yêu câu gì thêm.

Vn đề xử phạt tù: Thấy rằng mặc dù rất đau thương mất mát, muốn pháp luật xử tù giam, tuy nhiên nay thấy rằng bên bị cáo cũng đã khắc phục xong, bị cáo còn nuôi hai con vì vậy đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo hưởng án treo.

Li nói sau cùng của bị cáo: Đã biết hành vi của mình là có lỗi, rất ăn năn hối cải, đã vi phạm pháp luật, xin gửi lời xin lỗi đến gia đình bị hại, cám ơn phía đại diện hợp pháp của bị hại đã xin giảm nhẹ hình phạt, mong hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để về lao động, nuôi gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên Tòa, bị cáo, và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo Bùi Phước T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, kết hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đầy đủ cơ sở khẳng định:

Vào ngày khoảng 06 giờ 30 phút ngày 26/4/2019, Bùi Phước T điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 68C-079.70 theo hướng Hà Tiên - Rạch Giá. Khi đến đến đoạn đường thuộc tổ 04, ấp Kiên Sơn, xã Kiên Bình, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. T điều khiển xe lưu thông chạy giữa đường thì phát hiện có xe môtô chạy ngược chiều nên T đánh lái về bên phải, do không giữ khoảng cách an toàn nên xe ô tô đã đụng vào xe môtô biển kiểm soát 68K1-122.38 do ông Hà Văn D đang điều khiển lưu thông cùng chiều phía trước làm ông D ngã xuống đường và bị xe ôtô của T cán qua người. Hậu quả làm ông D tử vong do sốc đa chấn thương. Hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định về an toàn giao thông (không giữ khoảng cách an toàn đối xe chạy liền trước xe của mình) được quy định tại khoản 1 điều 12 luật giao thông đường bộ. Từ đó đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Bùi Phước T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

[3]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ nhận thức để biết rằng hành vi điều khiển xe ôtô tham gia giao thông là nguồn nguy hiểm cao độ nên cần phải tuân thủ các quy định của luật giao thông đường bộ, nhưng bị cáo điều khiển xe ôtô mà không giữ khoảng cách an toàn đã gây tai nạn dẫn đến cái chết của ông Hà Văn D, nên cần xử bị cáo mức án phù hợp để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho mọi người có ý thức chấp hành tốt luật giao thông đường bộ. Hành vi của bị cáo đã làm ảnh hưởng đến cuộc sống và sự tổn thất tinh thần không gì bù đắp được cho gia đình người bị hại, gây hoang mang cho người dân khi tham gia giao thông.

[4]. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy rằng trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo và gia đình cũng đã khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại số tiền tổng số tiền 250.000.000đ, sau khi gây tai nạn cũng đã đưa người bị nạn đi cứu chữa, sau đó còn đến cơ quan công an để đầu thú, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, ngoài ra người đại diện hợp pháp của bị hại cũng đã làm đơn bãi nại cho bị cáo và không có yêu cầu bồi thường gì thêm. Nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1 điều 51 và khoản 2 điều 51 bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện sự khoan hồng của Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, xét thấy không cần bắt phải chấp hành hình phạt tù bị cáo cũng có khả năng tự cải tạo và việc xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo cũng đủ răn đe phòng ngừa do đó hội đồng xét xử áp dụng điều 65 Bộ Luật Hình Sự và điều 2, điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo để xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với bị cáo.

Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát là có cơ sở, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Đại diện người bị hại không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[6]. Về vật chứng vụ án: Các vật chứng trong vụ án đã trao trả cho chủ sở hữu nên miễn xét.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tun bố: Bị cáo Bùi Phước T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”

- Căn cứ Điểm a, khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

- Căn cứ điều 2, điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo.

- Xử phạt: Bị cáo Bùi Phước T 1 (một) năm 6 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày (26/4/2019 đến 04/5/2019). Thời gian thử thách là 3 (ba) năm kể từ ngày tuyên án (31/7/2019).

Giao bị cáo Bùi Phước T cho Ủy Ban Nhân Dân phường Đông Hồ, Thành phố Hà Tiên tỉnh Kiên Giang giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự: Không có yêu cầu gì thêm nên miễn xét.

Về tang vật vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- 01 (một) xe ô tô biển kiểm soát 68C-079.70 số khung R75LH7A02307, số máy 4HK1543033, nhãn hiệu ISUZU, màu sơn trắng, xe đã qua sử dụng.

- 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 68K1-122.38, số khung C100M0436116, số máy 100ME0436116, nhãn hiệu Honda, màu sơn nâu, xe đã qua sử dụng.

Hai vật chứng nêu trên đã trao trả cho chủ sở hữu nên miễn xét.

Về án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

+ Buộc bị cáo Bùi Phước T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo hạn luật định 15 ngày kể từ ngày tuyên án (31/7/2019). Riêng người vắng mặt được quyền kháng cáo bản án kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết theo luật định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, b và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

535
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2019/HS-ST ngày 31/07/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:38/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiên Lương - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về