Bản án  05/2019/HS-ST ngày 15/01/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

 TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DMC, TỈNH TÂY NINH 

BẢN ÁN 05/2019/HS-ST NGÀY 15/01/2019 VỀ VI PHẠM VỀ ĐIỀU KHIỂN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 15 tháng 01 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Huyện DMC xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 60/2018/HS-ST ngày 03 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2019/QĐXXST- HS ngày 02 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo: 

Trần Ngọc S, sinh năm 1986 tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: Kp1, P2, tpTN, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Nhân viên văn phòng; trình độ văn hóa: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; cón ông Trần Ngọc Ng, sinh năm 1959 và bà Châu Hoảnh D, sinh năm 1962; có vợ là Tô Thị Thanh Tr, sinh năm 1984 và 01 cón; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự lần nào và chưa bị xử lý vi phạm hành chính lần nào; áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 15 tháng 11 năm 2018 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Anh Đặng Văn X, sinh năm 1987 (đã chết).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Phạm Thị S, sinh năm 1958, là mẹ của bị hại; địa chỉ cư trú: Ấp TA, xã TM, Huyện DMC, tỉnh Tây Ninh; là người đại diện theo pháp luật; có mặt.

- Bị đơn dân sự: Anh Nguyễn Thái Tr, sinh năm 1974; địa chỉ cư trú: Kp2, P1. tpTN, tỉnh Tây Ninh; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 10 phút ngày 24 tháng 10 năm 2018, bị cáo Trần Ngọc S điều khiển xe ô tô khách biển số 70B-013.16 chở công nhân lưu thông trên đường liên tỉnh lộ 784 hướng đi từ xã CK, Huyện DMC, tỉnh Tây Ninh đến xã TM, Huyện DMC; khi đến khu vực ấp Thuận Tân, xã TM, Huyện DMC bị cáo S điều khiển xe lấn sang làn đường bên trái theo hướng đi của xe nên đã gây tai nạn giao thông cho xe mô tô biển số 70F4-1186 do anh Đặng Văn X điều khiển lưu thông theo hướng ngược lại; hậu quả làm anh X tử vong do đa chấn thương nặng.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Trần Ngọc S đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình.

Kết luận giám định pháp y về tử thi số 1401/KL-KTHS ngày 02 tháng 11 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Nguyên nhân tử vong của anh Đặng Văn X là do đa chấn thương nặng.

Kết luận giám định số 1406/KL-KTHS ngày 29 tháng 10 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Mẫu máu ghi thu của Đặng Văn X có nồng độ cồn trong máu là 261,781 mg/100 ml máu. Mẫu máu ghi thu của Trần Ngọc S không có nồng độ cồn trong máu.

Khi điều khiển xe ô tô biển số 70B-013.16 gây tai nạn, bị cáo Trần Ngọc S có giấy phép lái xe theo quy định.

Về vật chứng vụ án:

+ Cơ quan điều tra đã thu giữ và giao trả lại cho anh Nguyễn Thái Tr 01 xe ô tô khách biển số 70B-013.16, số máy 2D2251924723, số khung LSD7B9668266; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 025627, biển số 70B- 013.16 mang tên Nguyễn Thái Tr; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc xe ô tô biển số 70B-013.16; 01 giấy chứng nhận kiểm định số 5229921 của xe biển số 70B-013.16. Trả cho bà Phạm Thị S 01 xe mô tô biển số 70F4-1186, số máy 0FMH5P200343, số khung H7UM5A000343 và một số linh kiện, phụ tùng của xe bị gãy rời.

+ Thu giữ: 01 giấy phép lái xe số 720077000001 mang tên Trần Ngọc S, 01 giấy chứng minh nhân dân số 290799760 mang tên Trần Ngọc S.

Về trách nhiệm dân sự:

+ Anh Nguyễn Thái Tr đã bồi thường cho gia định bị hại số tiền 63.500.000 đồng; bà Phạm Thị S đã nhận đủ số tiền bồi thường, không có yêu cầu gì thêm và có đơn bãi nại, miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho S. 

+ Anh Tr không yêu cầu bị cáo Trần Ngọc S trả lại số tiền 63.500.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 59/CT-VKS-DMC ngày 30 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện DMC đã truy tố bị cáo Trần Ngọc S về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện DMC giữ nguyên cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; các điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 54, Điều 65 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Ngọc S từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi bốn) tháng.

+ Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, phải nuôi cha mẹ bị bệnh xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Huyện DMC, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện DMC, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Vào khoảng 18 giờ 10 phút ngày 24 tháng 10 năm 2018, trên đoạn đường 784 thuộc khu vực ấp Thuận Tân, xã TM, Huyện DMC, tỉnh Tây Ninh, bị cáo Trần Ngọc S có giấy phép lái xe theo quy định, điều khiển xe ô tô khách biển số 70B-013.16 theo hướng từ xã CK, Huyện DMC đến xã TM, Huyện DMC chạy lấn sang phần đường bên trái nên xe ô tô do Sang điều khiển đã đụng vào xe mô tô biển số 70F4-1186 do anh Đặng Văn X điều khiển lưu thông theo chiều ngược lại gây tai nạn; hậu quả làm anh X bị tử vong do đa chấn thương nặng.

Căn cứ vào kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện và các dấu vết để lại hiện trường thì nguyên nhân gây ra tai nạn là do trong quá trình tham gia giao thông đường bộ bị cáo Trần Ngọc S điều khiển xe không đúng phần đường quy định nên gây ra tai nạn làm chết người, đã vi phạm khoản 1 Điều 9 của Luật Giao thông đường bộ. Do đó, hành vi của bị cáo đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tai điểm a khoản 1 Điêu 260 của Bộ luật Hình sự như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

[3] Hành vi nêu trên của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng và đã gây thiệt hại đến tính mạng của người khác nên cần có hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bị cáo đã thực hiện để giáo dục và phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo:

Tình tiết tăng nặng: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; đã tích cực tác động để bị đơn dân sự bồi thường cho gia đình của bị hại xong số tiền 63.500.000 đồng nhằm khắc phục hậu quả và gia đình của bị hại có đơn xin bãi nại, miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điêu 51 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điêu 51 Bộ luật Hình sự; không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự và có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo, là thỏa mãn điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo.

[4] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

+ Gia đình của bị hại đã nhận số tiền bồi thường là 63.500.000 đồng, không yêu cầu gì thêm nên ghi nhận.

+ Ghi nhận anh Nguyễn Thái Tr không yêu cầu bị cáo S bồi thường thiệt hại về tài sản đối với xe ô tô biển số 70B-013.16 bị hư hỏng và không yêu cầu bị cáo S hoàn trả lại số tiền đã bồi thường cho bị hại trong vụ án này.

[5] Về xử lý vật chứng:

+ Cơ quan điều tra Công an Huyện DMC đã giao trả xe ô tô khách biển số 70B-013.16 cho chủ sở hữu và giao trả xe mô tô biển số 70F4-1186 cho gia đình của bị hại xong là đúng quy định của pháp luật.

+ Tuyên trả lại cho bị cáo S: 01 giấy phép lái xe số 720077000001, 01 giấy chứng minh nhân dân số 290799760, mang tên Trần Ngọc S.

[6] Về án phí: Căn cứ các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì bị cáo S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc S phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc S 01 (một) năm tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Trần Ngọc S cho Ủy ban nhân dân phường 2, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

 “Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

2. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

+ Ghi nhận gia đình của bị hại đã nhận số tiền bồi thường là 63.500.000 đồng, không yêu cầu gì thêm.

+ Ghi nhận anh Nguyễn Thái Tr không yêu cầu bị cáo S bồi thường thiệt hại về tài sản đối với xe ô tô biển số 70B-013.16 bị hư hỏng và không yêu cầu bị cáo hoàn trả lại số tiền đã bồi thường cho bị hại trong vụ án này.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Ghi nhận anh Nguyễn Thái Tr đã nhận lại 01 xe ô tô khách biển số 70B-013.16, số máy 2D2251924723, số khung LSD7B9668266; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 025627, biển số 70B-01316 mang tên Nguyễn Thái Tr; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc xe ô tô biển số 70B-013.16; 01 giấy chứng nhận kiểm định số 5229921 của xe biển số 70B-01316.

+ Ghi nhận bà Phạm Thị S đã nhận lại 01 xe mô tô biển số 70F4-1186, số máy 0FMH5P200343, số khung H7UM5A000343 và một số linh kiện, phụ tùng của xe bị gãy rời.

+ Trả lại cho bị cáo Trần Ngọc S 01 giấy phép lái xe số 720077000001, 01 giấy chứng minh nhân dân số 290799760, mang tên Trần Ngọc S.

Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự Huyện DMC, tỉnh Tây Ninh đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07-12-2018.

4. Án phí HSST: Bị cáo Trần Ngọc S phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

6. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án này lên Toà an nhân dân tinh Tây Ninh. Bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án  05/2019/HS-ST ngày 15/01/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:05/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về