Bản án 38/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 38/2019/HS-ST NGÀY 16/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 16 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 36/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

HOA THỊ LƯU L - Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 26 tháng 10 năm 1996 tại huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Nơi ĐKHKTT: Tổ A, TT. B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Chỗ ở hiện nay (Tạm trú): Tổ B, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoa Văn H và bà Nguyễn Thị T; chồng, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/01/2019 đến nay tại trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Kạn. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Trịnh Minh C – sinh năm 2002.

Trú tại: Thôn N, xã Đ, huyện B, tỉnh Bắc Kạn

- Người đại diện theo ủy quyền củ chị C: Ông Trịnh Xuân C – sinh năm 1972.

Trú tại: Thôn N, xã Đ, huyện B, tỉnh Bắc Kạn, có mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Hoàng Ngọc H – sinh năm 1993.

Trú tại: Thôn N, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, vắng mặt.

2. Anh Phan Văn T – sinh năm 1997.

Trú tại: Thôn B, xã Y, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 07 giờ 10 phút ngày 06/01/2019 Tổ công tác Công an huyện Chợ Đồn phát hiện Hoàng Ngọc H đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại khu vực thôn N, xã B, huyện C tạm giữ 01 xi lanh nhựa màu trắng loại 03ml/cc đã qua sử dụng, 01 mảnh giấy một mặt màu bạc một mặt màu trắng có kích thước khoảng 02cm x 02cm, 01 mảnh giấy một mặt màu đỏ có chữ Straw Berry, một mặt màu trắng có kích thước khoảng 03cm x 04cm.

Nguồn gốc số ma túy (Heroine) H sử dụng là do H cùng Phan Văn T đi mua của bị cáo L vào khoảng 21 giờ 45 ngày 05/01/2019. Khi gặp L để mua ma túy (Heroine) thì H và T mỗi người tự đưa cho L số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) rồi được bị cáo đưa cho H 01 gói nhỏ ma túy thì H hỏi L sao mua 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) được 01 gói ma túy thì L trả lời bên trong có 02 gói.

Cùng ngày Cơ quan điều tra đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp đối với người, chỗ ở, phương tiện và công trình phụ cận đối với bị cáo. Qua khám xét đã phát hiện thu giữ: 01 gói chất bột màu trắng được gói bằng loại giấy một mặt màu trắng, một mặt màu bạc bọc trong mảnh giấy một mặt màu đỏ, một mặt màu trắng trên giường ngủ bên trong, trong phòng trọ của L (Niêm phong trong phong bì ký hiệu T3); 01 gói cỏ khô màu xanh đựng trong túi nilon màu trắng có chữ YUMY tại phía đầu giường ngủ của L (Niêm phong trong phong bì ký hiệu T4); 01 gói chất bột màu hồng được gói bằng linon màu trắng tại móc treo trên tường cạnh giường ngủ của L (Niêm phong trong phong bì ký hiệu T5); 02 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Xiaomi; 01 cân tiểu ly điện tử; 02 mảnh giấy kích thước khoảng 02cm x 02cm, một mặt màu trắng, một mặt màu vàng; 01 mảnh giấy một mặt màu đỏ có chữ Strawberry, một mặt màu trắng; 01 giấy chứng minh nhân dân số 095259197 mang tên Hoa Thị Lưu L; Số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng).

Tại biên bản mở niêm phong và cân xác định khối lượng hồi 16 giờ 30 phút ngày 06/01/2019 tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Đồn xác định: Phong bì niêm phong ký hiệu T3: Bên trong có 01 (một) gói chất bột màu trắng được gói bằng được gói bằng loại giấy một mặt màu trắng, một mặt màu bạc bọc trong mảnh giấy một mặt màu đỏ, một mặt màu trắng. Cân riêng số chất bột màu trắng có khối lượng 0,24g (Không phẩy hai mươi tư gam), niêm phong gửi giám định ký hiệu C1.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Đồn đã tiến hành trưng cầu giám định xác định khối lượng và chất ma túy thu giữ của bị cáo L. Tại bản kết luận giám định số 24/KTHS-MT ngày 13/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu C1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,240g (Không phẩy hai mươi bốn gam); Mẫu chất bột màu hồng trong phong bì ký hiệu T5 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,548g (Không phẩy năm bốn tám gam)".

Tại bản kết luận giám định số 920/C09-TT2 ngày 01/3/2019 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: “Mẫu thực vật màu xanh trong 01 (một) túi nilon trong phong bì ký hiệu T4 gửi giám định là Cần sa; khối lượng mẫu là 1,393g (Một phẩy ba chín ba gam)".

Bị cáo khai nhận: Vào khoảng 21 giờ 45 phút ngày 05/01/2019 tại khu vực ngã ba gần Trung tâm y tế huyện Chợ Đồn thuộc tổ C, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn được bán ma túy cho H và T mỗi người một gói ma túy thu được 400.000đ. Nguồn gốc ma túy bị cáo khai là của T (Tên gọi khác C), sinh năm 1992, trú tại Tổ D, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.

Về nguồn gốc số ma túy (Methamphetamine và Cần sa) mà Cơ quan điều tra thu giữ khi khám xét là do trước đó L được một người phụ nữ L quen tên là H nhà ở thành phố B, tỉnh Bắc Kạn (Không rõ họ, tên đệm và địa chỉ cụ thể) cho trước đó. Sau đó L mang về phòng trọ cất giữ, sử dụng và để bán cho người khác.

Tại bản cáo trạng số: 35/CT-VKSCĐ ngày 10/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Hoa Thị Lưu L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Điều luật có nội dung:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

c) Đối với 02 người trở lên;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu hoặc toàn bộ tài sản”

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn tham gia phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Điểm c khoản 2 Điều 251; Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 của bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 07 đến 08 năm tù.

- Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không phạt tiền đối với bị cáo.

- Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

- Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy 0,200g (Không phẩy hai gam) chất ma túy loại Heroine và 0,510g (Không phẩy năm một không gam) chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau khi giám định cùng phong bì, bao, gói cũ được niêm phong trong một phong bì ký hiệu T24 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn; 0,745g (Không phẩy bảy bốn năm gam) Cần sa còn lại sau khi giám định cùng các vỏ bao gói cũ được niêm phong trong một phong bì ký hiệu 920/C09-TT2 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an; 01 vỏ phong bì ký hiệu T3 và giấy gói ma túy cũ ban đầu; 01 mảnh giấy kích thước khoảng 03cm x 04cm, một mặt màu đỏ có chữ Strawberry, một mặt màu trắng; 02 mảnh giấy kích thước khoảng 02cm x 02cm, một mặt màu trắng, một mặt màu vàng; 01 xi lanh nhựa màu trắng loại 03ml/cc đã qua sử dụng; 01 mảnh giấy một mặt màu bạc một mặt màu trắng có kích thước khoảng 02cm x 02cm; 01 mảnh giấy một mặt màu đỏ có chữ Strawberry, một mặt màu trắng có kích thước khoảng 03cm x 04cm.

- Trả cho bị cáo 01 giấy chứng minh nhân dân số 095259197 mang tên Hoa Thị Lưu L do Công an tỉnh Bắc Kạn cấp ngày 09/9/2017.

- Trả cho chị Trịnh Minh C 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, vỏ màu xanh da trời nhãn hiệu Xiaomi Redmi 6A, ốp lưng bằng nhựa màu trong suốt, điện thoại có số Sêri 8821C64F7D25, bên trong có gắn 02 sim điện thoại, trong đó có 01 sim có số thuê bao 0979 666 035 và 01 sim dùng để vào mạng nên không xác định được số thuê bao, điện thoại đã qua sử dụng (tịch thu tiêu hủy 01 sim có số thuê bao 0979 666 035 của bị cáo)

- Tạm giữ để thi hành án cho bị cáo 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, vỏ màu trắng vàng nhãn hiệu Xiaomi Redmi 5, điện thoại có số Sêri AE8ED8887D94, bên trong có gắn 02 sim điện thoại, trong đó có 01 sim có số thuê bao 0984 910 184 và 01 sim dùng để vào mạng nên không xác định được số thuê bao, điện thoại đã qua sử dụng.

- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 cân tiểu ly điện tử nhãn hiệu QC PASS 200g/0.01g, mặt cân bằng kim loại màu trắng, vỏ cân bằng nhựa màu đen và nắp cân bằng nhựa màu trong suốt, cân đã qua sử dụng.

- Buộc bị cáo nộp lại 400.000đ do bị cáo bán ma túy

- Tạm giữ để thi hành án cho bị cáo số tiền 400.000VNĐ (Bốn trăm nghìn đồng đồng) tiền do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành; tiêu hủy 01 vỏ phong bì ký hiệu T2 được niêm phong trong 01 phong bì ký hiệu L1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Đồn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 21 giờ 45 phút ngày 05/01/2019 tại khu vực ngã ba đường gần Trung tâm y tế huyện Chợ Đồn thuộc tổ 1 thị trấn Bằng Lũng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn bị cáo L đã có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy Heroine cho Hoàng Ngọc H với số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) và bán trái phép 01 gói ma túy Heroine cho Phan Văn T với số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Thu được tổng số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng).

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng của vụ án và các tài liệu có trong hồ sơ. Bị cáo thực hiện hành vi khi có đầy đủ nặng lực trách nhiệm hình sự. Vì vậy việc truy tố, xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng pháp luật.

Xét tính chất, hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm gia tăng tội phạm và tệ nạn xã hội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự ở địa phương. Cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với bị cáo và đúng quy định của pháp luật.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự và được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 đó là “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” và 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đó là bị cáo có ông nội là ông Hoa Văn B là người có công với nước được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì.

Hình hình phạt bổ sung (phạt tiền): Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Do đó Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Trong vụ án có Hoàng Ngọc H và Phan Văn T là những người mua ma túy với bị cáo về để sử dụng thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Xét hành vi của những người này không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Cơ quan điều tra đã tách hồ sơ để xem xét, xử lý sau.

Đối với Trịnh Minh C là người ở chung phòng trọ với bị cáo và cho bị cáo mượn điện thoại di động để lắp sim trao đổi mua bán trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra xác định C không biết việc bị cáo mua bán trái phép chất ma túy nên Cơ quan điều tra không xem xét, xử lý.

Đối với T (Tên gọi khác C), sinh năm 1992, trú tại Tổ D, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn (Theo lời khai của của bị cáo) là người đã đưa ma túy (Heroine) để bị cáo mang bán cho Hoàng Ngọc H, Phan Văn T và đưa ma túy (Heroine) cho bị cáo để sử dụng và bán cho người khác vào tối ngày 05/01/2019 tại phòng trọ của của bị cáo. Quá trình điều tra, lấy lời khai và đối chất L không thừa nhận hành vi đưa ma túy (Heroine) cho bị cáo để bị cáo mang bán cho người nghiện như bị cáo đã khai báo. Nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Đối với người phụ nữ tên H nhà ở Thành phố B, tỉnh Bắc Kạn (Không rõ họ, tên đệm và địa chỉ cụ thể) theo lời khai của bị cáo là người đã cho bị cáo số ma túy (Methamphetamine và Cần sa) để sử dụng và bán kiếm lời. Kết thúc điều tra bị cáo không cung cấp được danh tính, địa chỉ cụ thể nên không đủ căn cứ để điều tra, xử lý.

[3]. Xét về vật chứng:

- 0,200g (Không phẩy hai gam) chất ma túy loại Heroine và 0,510g (Không phẩy năm một không gam) chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau khi giám định cùng phong bì, bao, gói cũ được niêm phong trong một phong bì ký hiệu T24 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn; 0,745g (Không phẩy bảy bốn năm gam) Cần sa còn lại sau khi giám định cùng các vỏ bao gói cũ được niêm phong trong một phong bì ký hiệu 920/C09-TT2 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an; 01 vỏ phong bì ký hiệu T3 và giấy gói ma túy cũ ban đầu; 01 mảnh giấy kích thước khoảng 03cm x 04cm, một mặt màu đỏ có chữ Strawberry, một mặt màu trắng; 02 mảnh giấy kích thước khoảng 02cm x 02cm, một mặt màu trắng, một mặt màu vàng.

- 01 xi lanh nhựa màu trắng loại 03ml/cc đã qua sử dụng; 01 mảnh giấy một mặt màu bạc một mặt màu trắng có kích thước khoảng 02cm x 02cm; 01 mảnh giấy một mặt màu đỏ có chữ Strawberry, một mặt màu trắng có kích thước khoảng 03cm x 04cm - xác định là vật cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng.

- 01 cân tiểu ly điện tử nhãn hiệu QC PASS 200g/0.01g, mặt cân bằng kim loại màu trắng, vỏ cân bằng nhựa màu đen và nắp cân bằng nhựa màu trong suốt, cân đã qua sử dụng - là dụng cụ dùng vào việc phạm tội.

- 01 giấy chứng minh nhân dân số 095259197 mang tên Hoa Thị Lưu Ly do Công an tỉnh Bắc Kạn cấp ngày 09/9/2017 - xác định không liên quan đến việc phạm tội.

- 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, vỏ màu xanh da trời nhãn hiệu Xiaomi Redmi 6A, ốp lưng bằng nhựa màu trong suốt, điện thoại có số Sêri 8821C64F7D25, bên trong có gắn 02 sim điện thoại, trong đó có 01 sim có số thuê bao 0979 666 035 và 01 sim dùng để vào mạng nên không xác định được số thuê bao, điện thoại đã qua sử dụng - xác định của chị Châu, chị Châu không liên quan đến việc phạm tội (sim số thuê bao 0979 666 035 - xác định của bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy)

- 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, vỏ màu trắng vàng nhãn hiệu Xiaomi Redmi 5, điện thoại có số Sêri AE8ED8887D94, bên trong có gắn 02 sim điện thoại, trong đó có 01 sim có số thuê bao 0984 910 184 và 01 sim dùng để vào mạng nên không xác định được số thuê bao, điện thoại đã qua sử dụng - xác định bị cáo không dùng vào việc phạm tội.

- Số tiền 400.000đ bị cáo bán ma túy mà có không thu giữ được.

- Số tiền 400.000VNĐ (Bốn trăm nghìn đồng đồng) tiền do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành và 01 vỏ phong bì ký hiệu T2 được niêm phong trong 01 phong bì ký hiệu L1 - xác định là tiền của bị cáo do thu nhập hợp pháp.

[4]. Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hoa Thị Lưu L phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

[1]. Căn cứ vào Điểm c khoản 2 Điều 251; Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Hoa Thị Lưu L 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/01/2019.

Hình phạt bổ sung (phạt tiền): Không phạt tiền đối với bị cáo.

[2]. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,200g (Không phẩy hai gam) chất ma túy loại Heroine và 0,510g (Không phẩy năm một không gam) chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau khi giám định cùng phong bì, bao, gói cũ được niêm phong trong một phong bì ký hiệu T24 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn; 0,745g (Không phẩy bảy bốn năm gam) Cần sa còn lại sau khi giám định cùng các vỏ bao gói cũ được niêm phong trong một phong bì ký hiệu 920/C09-TT2 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an; 01 vỏ phong bì ký hiệu T3 và giấy gói ma túy cũ ban đầu; 01 mảnh giấy kích thước khoảng 03cm x 04cm, một mặt màu đỏ có chữ Strawberry, một mặt màu trắng; 02 mảnh giấy kích thước khoảng 02cm x 02cm, một mặt màu trắng, một mặt màu vàng.

- 01 xi lanh nhựa màu trắng loại 03ml/cc đã qua sử dụng; 01 mảnh giấy một mặt màu bạc một mặt màu trắng có kích thước khoảng 02cm x 02cm; 01 mảnh giấy một mặt màu đỏ có chữ Strawberry, một mặt màu trắng có kích thước khoảng 03cm x 04cm.

- Trả cho bị cáo 01 giấy chứng minh nhân dân số 095259197 mang tên Hoa Thị Lưu L do Công an tỉnh Bắc Kạn cấp ngày 09/9/2017.

- Trả cho chị Trịnh Minh C 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, vỏ màu xanh da trời nhãn hiệu Xiaomi Redmi 6A, ốp lưng bằng nhựa màu trong suốt, điện thoại có số Sêri 8821C64F7D25, bên trong có gắn 02 sim điện thoại, trong đó có 01 sim có số thuê bao 0979 666 035 và 01 sim dùng để vào mạng nên không xác định được số thuê bao, điện thoại đã qua sử dụng (tịch thu tiêu hủy 01 sim có số thuê bao 0979 666 035 của bị cáo)

- Tạm giữ để thi hành án cho bị cáo 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, vỏ màu trắng vàng nhãn hiệu Xiaomi Redmi 5, điện thoại có số Sêri AE8ED8887D94, bên trong có gắn 02 sim điện thoại, trong đó có 01 sim có số thuê bao 0984 910 184 và 01 sim dùng để vào mạng nên không xác định được số thuê bao, điện thoại đã qua sử dụng.

- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 cân tiểu ly điện tử nhãn hiệu QC PASS 200g/0.01g, mặt cân bằng kim loại màu trắng, vỏ cân bằng nhựa màu đen và nắp cân bằng nhựa màu trong suốt, cân đã qua sử dụng.

- Buộc bị cáo nộp lại 400.000đ do bị cáo bán ma túy.

- Tạm giữ để thi hành án cho bị cáo số tiền 400.000VNĐ (Bốn trăm nghìn đồng đồng) tiền do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành; tiêu hủy 01 vỏ phong bì ký hiệu T2 được niêm phong trong 01 phong bì ký hiệu L1.

Tất cả số vật chứng (Số lượng, tình trạng và ký hiệu theo biên bản giao nhận giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn).

[3]. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 của BLTTHS; quy định về trách nhiệm chi trả chi phí tố tụng, lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Việc thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự và Luật thi hành án dân sự.

“Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.”

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Đồn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về