Bản án 38/2018/HS-ST ngày 26/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 38/2018/HS-ST NGÀY 26/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 29/2018/TLST-HS ngày 09 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Nghiêm Trang V, sinh ngày 01 tháng 11 năm 1990 tại Lạng Sơn;

Nơi đăng ký thường trú: Số 07/317/28 đường Đ, phường V, quận N, thành phố H; chỗ ở hiện nay: Số 294 đường T, phường H, thành phố L, nghề nghiệp: Không; trinh độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; con ông Nghiêm Quang M và bà Hoàng Thị B; chồng: Đào Mạnh T; con: Có 01 con sinh năm 2015; tiền án: Ngày 30/6/2017 Tòa án nhân dân thành phố L xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, 01 năm thử thách về tội trộm cắp tài sản. Tiền sự: Ngày 18/10/2017 bị Công an thành phố L, tỉnh L xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại đến sức khỏe của người khác. Danh chỉ bản số 042 do Công an thành phố L, tỉnh Lạng Sơn lập ngày 11/12/2017. Bị cáo đang được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú,"có mặt".

- Bị hại: Chị Hoàng Thị T, sinh năm 1986; Địa chỉ: Ngõ 4 đường N, phường T, thành phố L, tỉnh L. "Vắng mặt".

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 17 giờ 10 phút ngày 08/12/2017 Công an thành phố Lạng Sơn nhận được đơn trình báo của chị Hoàng Thị T, sinh năm 1986, trú tại ngõ 4 đường N, phường T, thành phố L về việc bị mất chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda WAWE màu đỏ-xám đen, biển kiểm soát 12K8-5379 dựng trước cửa nhà. Khoảng 21 giờ 15 phút cùng ngày, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Công an thành phố L phối hợp với Công an phường C, thành phố L làm nhiệm vụ tại phố D, thuộc phường C phát hiện Nghiêm Trang V đang điều khiển chiếc xe mô tô có biển kiểm soát trùng với chiếc xe của chị Hoàng Thị T trình báo. Tổ công tác đã yêu cầu kiểm tra và đưa Nghiêm Trang V cùng vật chứng vể trụ sở để làm rõ.

Tại phiên tòa, bị cáo Nghiêm Trang V khai nhận: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 08/12/2017, sau khi uống thuốc Methadone tại Bệnh viện Lao tỉnh Lạng Sơn về, bị cáo đi lang thang đến ngõ 4 đường N, phường T, thành phố L, bị cáo nhìn thấy 01 chiếc xe máy dựng trên đầu ngõ, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa. Quan sát xung quanh thấy có mấy người thợ xây đang làm việc, không có ai để ý đến chiếc xe, Nghiêm Trang V đi đến ngồi lên xe mở khóa điện và nổ máy quay xe đi ra hướng đường N, qua phố Muối thì gặp một người quen là nam giới nhưng không nhớ tên và hỏi "Có biết chỗ nào cầm cố xe không giấy tờ không" người này trả lời "xe không giấy tờ thì không cầm được đâu" Bị cáo tiếp tục điều khiển xe máy đi lang thang trên địa bàn thành phố L tìm nơi tiêu thụ, đến khoảng 21 giờ cùng ngày, khi đi đến phố D, phường C thì bị Công an thành phố L phát hiện bắt giữ.

Tại bản cáo trạng số 25/KSĐT ngày 09/02/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố bị cáo Nghiêm Trang V về tội “Trộm cắp tài sảntheo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, trong lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L: Giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nghiêm Trang V phạm tội "Trộm cắp tài sản". Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm g khoản 1 Điều 48, điểm l, p khoản 1, 2 Điều 46, khoản 5 Điều 60, Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 1999; xử phạt bị cáo Nghiêm Trang V từ 09 tháng đến 12 tháng tù, tổng hợp với 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo theo bản án hình sự sơ thẩm số  91/2017 ngày 30/6/2017, của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh L. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Bị cáo được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/4/2017 đến ngày 04/5/2017 và từ ngày 09/12/2017 đến ngày 12/12/2017 là 23 ngày. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo là đối tượng nghiện ma túy và không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định. Xác nhận Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho bị hại Hoàng Thị T và bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận và nói lời sau cùng bị cáo không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi của bị cáo Nghiêm Trang V lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, không có người trông coi để chiếm đoạt. Theo kết quả định giá của hội đồng định giá trong tố tụng hình sự, tài sản là chiếc xe máy trị giá 6.000.000đ (sáu triệu đồng) đã đủ căn cứ khẳng định cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, truy tố bị cáo Nghiêm Trang V về tội "Trộm cắp tài sản" là đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ. Gây mất trật tự trị an xã hội, vì vậy cần được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4] Về nhân thân: Bị cáo được gia đình nuôi ăn học hết lớp 12/12 phổ thông, tuy nhiên không chịu tu dưỡng, rèn luyện. Trước khi phạm tội bị cáo đã có một tiền án về tội trộm cắp tài sản và một tiền sự về hành vi xâm hại sức khỏe người khác, chưa được xóa án tích và chưa hết thời hiệu xử lý vi phạm hành chính, nay lại tiếp tục phạm tội chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Ngày 30/6/2017 Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng và chưa được xóa án tích. Đây là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự 1999.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đang có thai. Mặt khác bị hại Hoàng Thị T có đơn đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo, đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p, l khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, được xem xét khi quyết định hình phạt.

[7] Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân bị cáo, lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ được chấp nhận. Vì vậy việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo vẫn là cần thiết mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Do bị cáo phạm tội mới trong thời gian thử thách của bản án hình sự sơ thẩm số 91/2017/HSST ngày 30/6/2017 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh L, xử phạt bị cáo 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án; bị cáo được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/4/2017 đến ngày 04/5/2017 của bản án hình sự sơ thẩm 91/2017, và thời hạn tạm giữ từ ngày 09/12/2017 đến ngày 12/12/2017 là 23 ngày.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy và không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về bồi thường dân sự: Tại phiên tòa, bị hại chị Hoàng Thị T có đơn xin vắng mặt. Tuy nhiên trong biên bản lời khai và biên bản trả lại tài sản lập ngày21/12/2017, chị đã nhận lại chiếc xe máy và giấy tờ xe đầy đủ và không có yêu cầu gì thêm. Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

[11] Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138; điểm g khoản 1 Điều 48, điểm l, p khoản 1,2 Điều  46, Điều 33; khoản 5 Điều 60, Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 1999;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nghiêm Trang V phạm tội "Trộm cắp tài sản".

- Xử phạt bị cáo Nghiêm Trang V 01 (một) năm tù, tổng hợp với 06 (sáu) tháng tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 91/2017/HSST ngày 30/6/2017 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh L, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Bị cáo được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/4/2017 đến ngày 04/5/2017 và từ ngày 09/12/2017 đến ngày 12/12/2017 là 23 ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi chấp hành án;

2. Án phí: Bị cáo Nghiêm Trang V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, sung ngân sách Nhà nước.

3. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

317
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2018/HS-ST ngày 26/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:38/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về