Bản án 23/2018/HSST ngày 21/03/2018 về trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 23/2018/HSST NGÀY 21/03/2018 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 11/2018/HSST ngày 06 tháng 02 năm 2018 đối với:

* Bị cáo: Lê Quốc S - Sinh ngày 20 tháng 4 năm 1985 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT: Tổ X, phường H, quận K, TP Đà Nẵng; Nơi cư trú: Tổ P, phường M, quận L, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thanh S1 (chết) và bà Đinh Thị Minh T; Tiền án, Tiền sự: Chưa;

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 20/9/2017 theo Bản án số 44/2017/HSST ngày 27.12.2017 của Tòa án nhân dân quận Z, thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Ông Đặng G - Sinh năm 1976 - Địa chỉ: thôn B, xã D, huyện V, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đinh Thị Minh T - Sinh năm 1958 - Địa chỉ: Tổ P, phường M, quận L, thành phố Đà Nẵng. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 00 ngày 14.6.2017, Lê Quốc S sử dụng xe môtô hiệu Wave Damsan biển kiểm soát 43S2-1184 dạo quanh các tuyến đường tìm sơ hở của người dân để trộm cắp tài sản. Khi đến công trình nhà đang xây tại Lô số F đường Q, phường A, quận K, TP Đà Nẵng không có người trông coi, S dựng xe môtô trước cổng công trình rồi đột nhập vào bên trong. S đi lên tầng 3 của công trình thấy có 01 máy tời hiệu Kio Winch GG300 màu đỏ của ông Đặng G là chủ thầu công trình trên. Khi S đang tháo máy tời để trộm cắp thì bị ông Đoàn Đức Sơn đang ngủ tại công trình phát hiện tri hô để mọi người vây bắt, S nghe vậy chạy xuống tầng 1 trốn thoát và bỏ lại chiếc xe môtô. Khoảng 4 giờ 30 phút cùng ngày, S quay trở lại công trình lấy xe nhưng không thấy. S tiếp tục đột nhập vào bên trong công trình lấy trộm chiếc máy tời rồi mang đến đường Tăng Bạt Hổ, thành phố Đà Nẵng bán cho một người không rõ lai lịch được số tiền 1.000.000đồng. Số tiền bán được S tiêu xài cá nhân hết.

Theo kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xác định máy tời hiệu Kio Winch GG300 có giá trị 3.900.000đ.

Về trách nhiệm dân sự: ông Đặng G đã nhận tiền bồi thường của Lê Quốc S và không yêu cầu gì thêm.

Đối với xe môtô hiệu Wave Damsan biển kiểm soát 43S2-1184 cơ quan điều tra đã trả xe cho bà của bà Đinh Thị Minh T.

Tại bản cáo trạng số: 19/CT-VKS-TK ngày 05 tháng 02 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Lê Quốc S về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng và đề nghị HĐXX: Áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999; điểm b, h,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù và áp dụng Điều 55, Điều 56 Bộ luật hình sự 2015 để tổng hợp hình phạt của Bản án số 44/2017/HSST ngày 27.12.2017 của Tòa án nhân dân quận Z.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với phần luận tội của Kiểm sát viên. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến phát biểu, tranh luận gì.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: bị cáo thật sự biết ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành rố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét về hành vi phạm tội: ngày 14.6.2017, tại công trình nhà đang xây tại Lô số F đường Q, phường A, quận K, TP Đà Nẵng, Lê Quốc S đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 máy tời hiệu Kio Winch GG300 màu đỏ trị giá 3.900.000đồng của ông Đặng G.

Hành vi phạm tội trên đây của Lê Quốc S đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999. Như vậy bản cáo trạng số: 19/CT-VKS-TK ngày 05 tháng 02 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê đã truy tố bị cáo Lê Quốc S là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án thì thấy: Bị cáo là người hoàn toàn khỏe mạnh, có sức lao động và nhận thức được việc xâm phạm đến tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì lòng tham nên vẫn cố tình chiếm đoạt tài sản của ông G. Hành vi của bị cáo không chỉ trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, mà còn ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Do đó, việc đưa bị cáo ra xét xử để áp dụng một hình phạt là cần thiết.

[4] Xét mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

Mặc dù bị cáo đã có bản án của TAND quận Z xử phạt 12 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" nhưng hành vi đã bị xét xử này xảy ra sau khi bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp trong vụ án này nên bị cáo không bị áp dụng tình tiết tái phạm.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, tại phiên tòa hôm nay và trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 mà bị cáo được hưởng.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường thêm nên HĐXX không xem xét.

Đối với Đinh Thị Minh T đã giao xe môtô hiệu Wave Damsan biển kiểm soát 43S2-1184 cho Lê Quốc S sử dụng nhưng không biết S sử dụng xe để làm phương tiện đi trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra xác định bà T là người quản lý hợp pháp xe trên nhưng khi mua xe không thực hiện việc chuyển quyền sở hữu nên Công an quận Thanh Khê xử phạt hành chính đối với bà T về hành vi không chuyển nhượng quyền sở hữu phương tiện theo quy định là phù hợp, HĐXX không xem xét về vấn đề này.

Xét các nội dung đề nghị của Đại diện VKSND quận Thanh Khê về tội danh, điều khoản luật và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp các nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

Về án phí: Bị cáo Lê Quốc S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ theo quy định tại Điều 23, 26 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc "Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, sử dụng án phí lệ phí Tòa án" của Uỷ ban thường vụ quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự 1999 và điểm b, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015;

Tuyên bố: Lê Quốc S phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Xử phạt: Lê Quốc S 06 (sáu) tháng tù.

Áp dụng Điều 55, Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 tổng hợp với hình phạt 12 tháng tù tại Bản án số 44/2017/HSST ngày 27.12.2017 của Tòa án nhân dân quận Z, thành phố Đà Nẵng, buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung của hai bản án là 18 (mười tám) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 20/9/2017.

Áp dụng Điều 23, 26 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc "Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, sử dụng án phí lệ phí Tòa án" của Uỷ ban thường vụ quốc hội; buộc Lê Quốc S phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng).

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 21.3.2018). Riêng người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

883
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2018/HSST ngày 21/03/2018 về trộm cắp tài sản

Số hiệu:23/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về