Bản án 38/2017/HSST ngày 01/09/2017 về tội cố ý làm hư hổng tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 38/2017/HSST NGÀY 01/09/2017 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 9 năm 2017 tại phòng xét xử, Toà án nhân dân huyện Đắk R’Lấp xét xử sơ thẩm công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 44/2017/HSST, ngaøy 08 thaùng 8 naêêm 2017 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Tiến T, sinh năm 1968 tại tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội); trú tại: Thôn 9, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: Lớp 12/12; con ông Nguyễn Tiến Nh (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ (đã chết); có vợ là Đặng Thị S, sinh năm 1974; có 02 con, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2013; tạm giữ từ ngày 22/6/2016 đến ngày 18/7/2016 được áp dụng biện pháp cho bảo lĩnh. Có mặt.

2. Họ và tên Đặng Nguyễn A, sinh năm 1989 tại tỉnh Nghệ An; trú tại: Thôn Q, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: Lớp 5/12; con ông Đặng Minh N, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị H; tạm giữ từ ngày 22/6/2016 đến ngày 07/7/2016 được được áp dụng biện pháp cho bảo lĩnh. Có mặt.

Người bị hại: Anh Nguyễn Trí C, sinh năm 1976

Địa chỉ: Quốc lộ 14, phường H, quận T, thành phố Hồ Chí Minh – Vắng mặt.

NHẬN THẤY

Các bị cáo Nguyễn Tiến T, Đặng Nguyễn A bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào ngày 15/3/2016 Nguyễn Văn Ch, trú tại: Tổ dân phố 6, thị trấn K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông thuê anh Nguyễn Trí C là thợ sửa chữa xe máy múc, trú tại: Phường H, quận T, thành phố Hồ Chí Minh lên thôn 2, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông sửa chữa xe máy múc cho Ch, sau khi sửa xong, Ch thanh toán cho C tiền công sửa chữa là 10.000.000 đồng. Đến ngày 29/3/2016, xe máy múc của Ch lại tiếp tục bị hư hỏng nên Ch gọi điện thoại cho anh C lên sửa chữa. C điều khiển xe ôtô bán tải biển kiểm soát: 51C -542.88 từ thành phố Hồ Chí Minh chở hai người thợ sửa máy múc là Huỳnh Văn D và Nguyễn Hoàng L lên xã Đ để sửa máy múc cho Ch. Do bộ van điều khiển của xe máy múc của Ch đã hư hỏng nên C thay bộ van điều khiển của C mang theo nhưng xe máy múc vẫn không hoạt động được, Ch yêu cầu C phải lắp lại van điều khiển máy múc của Ch lại như cũ và trả lại cho Ch số tiền 10.000.000 đồng tiền công sửa chữa mà C đã nhận của Ch trước đó, nhưng C không đồng ý trả lại số tiền 10.000.000 đồng, do đó giữa anh C và gia đình Ch xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Sợ bị gia đình Ch gây áp lực, anh C lên xe ôtô biển kiểm soát: 51C -542.88 chở D, L bỏ chạy theo đường từ hướng xã Đ đi xã Q, huyện Đ. Ch và vợ là Nguyễn Thị Phương L gọi điện thoại cho Nguyễn Danh B (là con ruột của C) và Khúc Ngọc V, Nguyễn Tiến H, Nguyễn Trọng Đ, Ngô Văn P (là thợ lái xe máy múc cho Ch) chặn xe và chiếm đoạt 01 bộ van phân phối xe máy múc để trên thùng xe ôtô bán tải của anh C. Sau đó anh C tiếp tục điều khiển xe ôtô bỏ chạy theo hướng xã Đ đi xã Q thì L gọi điện thoại cho Nguyễn Tiến T (anh ruột của Nguyễn Thị Phương L) nói “anh chặn giúp em chiếc xe bán tải màu đỏ, biển số Sài Gòn, nó sửa xe không được nhưng lấy tiền bỏ chạy rồi”, T đồng ý và điều khiển xe môtô nhãn hiện Dream, biển kiểm soát 78F1-7778 đi từ nhà ở xã K, huyện Đ theo ngã ba km 208 thuộc xã Q vào đường đi xã Đ. Khi đi đến đoạn đường thuộc thôn 10, xã Q thì T dừng lại, dùng chiếc xe môtô Dream, biển kiểm soát 78F1-7778 và cây cà phê để chặn ngang đường, mục đích không cho xe của C chạy qua và gọi điện thoại cho Đặng Nguyễn A (là người lái máy múc cho Nguyễn Tiến T) nói “mày vào giúp anh chặn chiếc xe bán tải, nó sửa xe cho bà L không được nhưng ôm tiền bỏ chạy rồi”, A đồng ý và điều khiển xe môtô biển kiểm soát: 48B1-076.47 từ xã K đến xã Q. Khi A đến nơi, Nguyễn Tiến T lấy bên đường 01 cây cà phê dài khoảng 02m, đầu cây có đường kính khoảng 10cm, ngọn cây có đường kính khoảng 02cm, Đặng Nguyễn A đi đến vườn trồng rau của nhà dân bên đường nhổ 01 thanh sắt, hình vuông, dài khoảng 1,2m, có cạnh khoảng 02cm cùng T chờ C điều khiển xe ôtô đến. Do T dùng xe và cây chặn ngang đường nên phương tiện của người dân lưu thông trên tuyến đường trên bị dừng lại, trong đó có 01 chiếc xe cày chở củi của người đàn ông (không xác định được nhân thân, lai lịch). Một số người dân hỏi T lý do chặn đường thì T nói là “Cướp” và giải thích là “có người sửa xe không được nhưng lấy tiền bỏ trốn nên chặn lại”. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, xe ôtô của anh C đi tới, thấy bị chặn đường nên anh C cho xe dừng lại, sau đó lùi vào sân nhà của người dân bên đường định quay đầu về hướng xã Đ để bỏ chạy thì T chạy đến trước đầu xe, phía bên phải dùng cây cà phê đập 01 cái vào kính chắn gió bên phải làm rạn nứt kính; A chạy đến đứng ở phần hông xe bên phải dùng cây sắt đập 03 cái vào kính cửa phía sau bên phải làm vỡ kính. Anh C lùi xe quay đầu bỏ chạy thì T tiếp tục đập 02 cái vào nắp ca pô bên phải làm móp méo; 01 cái ngang từ phải qua trái trúng vào phần thanh mui (thành cửa kính) và cửa kính làm móp méo, trầy xước; A đập 01 cái vào thành thùng xe bên phải gây móp méo, trầy xước. Anh C điều khiển quay đầu chạyngược lại về hướng xã Đ thì T ném cây cà phê vào thùng xe nhưng không xác định trúng vào vị trí nào của xe. Khi đó A nhìn thấy 02 người đàn ông (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đứng gần đó cũng dùng cây cà phê đuổi theo đập xe và một số người dân đi đường nhặt gạch, đá ném vào xe ôtô biển kiểm soát: 51C-542.88 gây hư hỏng một số bộ phận. Sau đó, anh Cường điều khiển xe ôtô chạy đi báo Công an xã Đ để xử lý.

Tại Kết luận định giá tài sản ngày 11/5/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đắk R’Lấp kết luận: Xe ôtô bán tải, nhãn hiệu MAZDA BT-50, màu đỏ, biển kiểm soát: 51C-542.88 bị hư hỏng trầy xước, móp méo, vỡ một số bộ phận tại thời điểm bị đập phá còn lại 96% giá trị sử dụng như: Gãy lìa ngang tại 1/3 giữa viền của cảng chắn phía trước; 01 vết móp nắp ca pô bên phải; 01 vết móp nắp ca pô bên trái; 01 vết nứt mép ngoài nắp ca pô phía trước, bên trái; 01 vếtmóp thành cửa phía trên, bên trái; 01 vết móp thành thùng bên trái, kích thước; 01 vết móp thành thùng bên phải; 01 vết bung lìa tay cầm cửa sau bên phải, xung quang móp méo; 01 vết móp, trầy xước thành cửa sau bên phải; kính cửa phía sau bên phải bị vỡ hoàn toàn; 02 vết chầy xước ngang kính cửa bên phải; 01 vết móp thanh mui phía trước, bên phải; rạn nứt kính chắn gió; 01 vết vỡ nan mặt nạ phía trước. Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 36.942.720 đồng.

Về vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đắk R’Lấp đã thu giữ gồm: 01 ôtô bán tải, nhãn hiệu MAZDA BT-50, màu đỏ, biển kiểm soát: 51C-542.88. Quá trình điều tra xác định không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp đã quyết định xử lý vật chứng số: 54 ngày 14/10/2016 trả lại cho Nguyễn Trí C là chủ sở hữu hợp pháp.

Đối với 01 xe môtô nhãn hiện Dream, biển kiểm soát 78F1-7778 thu giữ của Nguyễn Tiến T. Quá trình điều tra xác định thuộc quyền sở hữu của ông Trần Ngọc T, trú tại thôn T, xã Đ, huyện Đ cho Nguyễn Tiến Th mượn nhưng không biết Nguyễn Tiến T dùng vào việc phạm tội, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã quyết định xử lý vật chứng số: 54 ngày 14/10/2016 trả lại cho ông Trần Ngọc T là chủ sở hữu hợp pháp; Đối với xe môtô biển kiểm soát: 48B1-076.47,nhãn hiệu Sirius do Đặng Nguyễn A điều khiển đến đến nơi gây án. Quá trình điều tra xác định lúc được Nguyễn Tiến T gọi đến chặn xe ôtô của anh Nguyễn Trí C, Đặng Nguyễn A chưa có ý định đập xe ôtô và cũng không dùng để làm công cụ phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp không tiến hành thu giữ.

Đối với 01 cây cà phê dài khoảng 02m, đầu cây có đường kính khoảng 10cm,ngọn cây có đường kính khoảng 02cm và 01 thanh sắt dài khoảng 1,2m, hình vuông, mỗi cạnh khoảng 02cm, sau khi đập phá xe ôtô các bị can đã ném ở lề đường gần hiện trường vụ án. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp đã tiến hành truy tìm nhưng không có kết quả nên đã lập biên bản làm căn cứ xử lý.

Về phần bồi thường dân sự: Quá trình điều tra Nguyễn Tiến T và Đặng NguyễnA đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho anh Nguyễn Trí C, số tiền70.000.000 đồng, anh Nguyễn Trí C không yêu cầu bồi thường gì thêm và làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Nguyễn Tiến T.

Tại bản cáo trạng số 12A/CTr - VKS ngày 04 tháng 8 năm 2017 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp quyết định truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Đắk R’Lấp để xét xử các bị can về tội “Cố ý làm hư hổng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 143, điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến T từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt bị cáo Đặng Nguyễn A từ 06 tháng đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp quyết định xử lý vật chứng số: 54 ngày 14/10/2016 trả lại 01 ôtô bán tải, nhãn hiệu MAZDA BT-50, màu đỏ, biển kiểm soát: 51C-542.88 cho Nguyễn Trí C; 01 xe môtô nhãn hiện Dream, biển kiểm soát 78F1-7778 cho ông Trần Ngọc T theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 608 Bộ luật dân sự: Chấp nhận việc bị can Nguyễn Tiến T và Đặng Nguyễn A đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho anh Nguyễn Trí C số tiền 70.000.000 đồng, anh Nguyễn Trí C không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đề cập giải quyết.

Tại phiên toà các bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Nguyễn Tiến T và Đặng Nguyễn A khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào ngày 29/03/2016 khi nghe Nguyễn Thị Phương L gọi điện nhờ chặn chiếc xe bán tải màu đỏ, biển số Sài Gòn, vì lý do sửa xe máy múc không được nhưng lấy tiền bỏ chạy, mặc dù không có mâu thuẫn gì với anh C nhưng các bị cáo đã chặn xe của anh C lại, bị cáo T dùng cây cà phê, bị cáo A dùng cây sắt đập xe ô tô của anh Cường làm hư hỏng, trầy xước, móp méo, vỡ một số bộ phận của xe ô tô. Giá trị thiệt hại của xe ôtô biển số kiểm soát: 51C-542.88 tại thời điểm bị làm hư hổng quy ra thành tiền là 36.942.720 đồng.

Do đó, có đủ căn cứ để kết luận các bị cáo Nguyễn Tiến T và Đặng Nguyễn A phạm tội “Cố ý làm hư hổng tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 143 của Bộ luật hình sự như kết luận của kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến tài sản của người khác, làm mất trật tự an toàn xã hội gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần xử lý nghiêm.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của các bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 143 của Bộ luật Hình sự.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với các bị cáo:

Các bị cáo Nguyễn Tiến T và Đặng Nguyễn A phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho người bị hại với số tiền 70.000.000 đồng, người bị hại đã có đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Các bi cáo là ngươi lao động chính trong gia đình, có người bảo lãnh, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định. Vì vậy, HĐXX xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà có thể cho các bị cáo tự cải tạo ngoài xã hội dưới sự giám sát, giáo dục của gia đình và chính quyền địa phương cũng đủ giáo dục và cải tạo các bị cáo.

Đối với các đối tượng tham gia làm hư hổng chiếc xe ô tô bán tải biển số kiểm soát: 51C-542.88 với bị cáo Nguyễn Tiến T, Đặng Nguyễn A hiện không xác định được tên, tuổi, nhân thân lai lịch nên không có căn cứ xử lý. Khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

Về vật chứng vụ án:

Đối với chiếc xe ôtô bán tải, nhãn hiệu MAZDA BT-50, màu đỏ, biển kiểm soát: 51C-542.88 là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Trí Cường nên 14/10/2016 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp đã ra quyết định xử lý vật chứng số: 54 ngày 14/10/2016 trả lại cho anh Cường là chủ sở hữu hợp pháp nên cần chấp nhận.

Đối với 01 xe môtô nhãn hiện Dream, biển kiểm soát 78F1-7778 do bị cáo Nguyễn Tiến T mượn của ông Trần Ngọc T, khi cho mượn ông T không biết T sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Trong qua trình giải quyết vụ án các bị cáo Nguyễn Tiến T, Đặng Nguyễn A đã tự nguyện bồi thường cho anh Nguyễn Trí C số tiền 70.000.000 đồng. Anh C đã nhận đủ tiền và có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đề cập giải quyết.

Xét quan điểm của đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận

Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Tiến T, Đặng Nguyễn A phạm tội “Cố ý làm hư hổng tài sản”

Áp dụng khoản 1 Điều 143; điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến T 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 01/9/2017).

Giao bị cáo Nguyễn Tiến T cho UBND xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông và gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Xử phạt bị cáo Đặng Nguyễn A 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 01/9/2017).

Giao bị cáo Đặng Nguyễn A cho UBND xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông và gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách

Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

Chấp nhận Quyết định xử lý vật chứng số: 54 ngày 14/10/2016 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp trả chiếc xe ôtô bán tải, nhãn hiệu MAZDA BT-50, màu đỏ, biển kiểm soát: 51C-542.88 cho anh Nguyễn Trí C; Trả 01 xe môtô nhãn hiện Dream, biển số kiểm soát 78F1-7778 cho ông Trần Ngọc T là các chủ sở hữu hợp pháp.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, Điều 23, Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội: Buộc bị cáo Nguyễn Tiến T, Đặng Nguyễn A mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

412
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2017/HSST ngày 01/09/2017 về tội cố ý làm hư hổng tài sản

Số hiệu:38/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk R'Lấp - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về