Bản án 379/2019/HS-ST ngày 11/11/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 379/2019/HS-ST NGÀY 11/11/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 11 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 382/2019/HS-ST ngày 29 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 401/2019/HSST-QĐ ngày 31 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn H, sinh năm 1997 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Đội B, xã Th B, huyện N C, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Số BB đường số T, khu phố Th Nh 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1960 (đã chết) và bà Phạm Thị L, sinh năm 1968; bị cáo có 02 anh ruột, lớn sinh năm 1986, nhỏ sinh năm 1988; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 02/8/2019 đến ngày 11/8/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

2. Trần Văn Đ, sinh năm 1995 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn C, xã Qu V, huyện Qu X, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Số M đường số N, khu phố Th Nh 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Trần Văn H, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1955; bị cáo có 03 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm 1981, nhỏ nhất sinh năm 1987; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 02/8/2019 đến ngày 08/8/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn H, Trần Văn Đ là những người quen biết nhau ngoài xã hội và cùng mua bán số với nhau qua hình thức tin nhắn điện thoại. Lúc 15 giờ 41 phút ngày 01/8/2019, Đ sử dụng điện thoại di động hiệu Nokia 230 màu xám gắn sim số 0965.222.575 nhắn tin đến sim số 0962.957.253 của H để mua số đề với nội dung như sau “20 50 điểm 2dai” thì được H xác nhận là “Ok”. Theo đó Đ mua số 20 bao lô 50 điểm cho 02 đài miền Nam (Tây Ninh và An Giang), cứ tương ứng 01 điểm là 1.000 đồng, bao lô 02 con số thì tương đương với 18.000 đồng. Với đài miền Nam có 18 lô tương ứng sẽ là 50.000 đồng x 18 = 900.000 đồng/đài (02 đài 900.000 đồng x 2 =1.800.000 đồng). Tuy nhiên, giữa H và Đ quy ước H chỉ lấy 14 lô (tương ứng 1.400.000 đồng). Sau khi có kết quả sổ xố ngày 01/8/2019 tại đài miền Nam thì H thắng Đ số tiền 1.800.000 đồng nhưng thực tế H chỉ nhận 1.400.000 đồng.

Bằng cách tương tự, vào lúc 17 giờ 44 phút cùng ngày, Đ nhắn tin cho H để mua số đề với nội dung “12 50điểm, 12 20da 10điểm” thì H xác nhận là “Ok”. Theo đó Đ mua 12 bao lô 50 điểm cho đài miền Bắc và mua cặp số đá 12-20 bao lô là 10 điểm. Theo đài miền Bắc tổng cộng 27 lô, 01 điểm tương ứng 1.000 đồng, bao lô 02 con số tương ứng với 27.000 đồng. Điền mua số 12 bao lô 50 điểm nên số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 50.000 đồng x 27 =1.350.000 đồng nhưng thực tế H chỉ lấy 23 lô (tương ứng 1.150.00 đồng). Đ tiếp tục mua cặp số đá 12 - 20 bao lô 10 điểm tương ứng với số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 10 x 27.000 đồng x 2 = 540.000 đồng (thực tế H chỉ lấy 460.000 đồng). Sau khi có kết quả đài miền Bắc thì H thua Đ ở số 12 bao lô 50 điểm tương ứng với số tiền 4.000.000 đồng (1.000 đồng thắng 80.000 đồng) và cặp số 12 -20 bao lô 10 điểm tương ứng với số tiền 7.000.000 đồng (1.000 đồng thắng 700.000 đồng). Tổng số tiền H thua Đ 11.000.000 đồng, H đã đưa cho Đ 2.000.00 đồng.

Như vậy, tổng số tiền H và Đ sử dụng vào việc đánh bạc đài miền Nam 1.800.000 đồng và tổng số tiền H và Đ sử dụng vào việc đánh bạc đài miền Bắc là 1.350.000 đồng + 540.000 đồng + 11.000.000 đồng = 12.890.000 đồng.

Đến khoảng 22 giờ ngày 02/8/2019, tổ tuần tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương tiến hành tuần tra trên địa bàn thị xã D A phát hiện Nguyễn Văn H có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, H đã tự thú về hành vi Đánh bạc dưới hình thức mua bán số đề qua tín nhắn điện thoại với Trần Văn Đ. Sau khi biết được H đưa về trụ sở Công an làm việc thì Đ đã đến Công an đầu thú về hành vi của mình.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 230 màu xám, kèm sim số 0965.222.575 của Trần Văn Đ, 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme màu đen, kèm sim số 0962.957.253 của Nguyễn Văn H và 2.000.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số: 400/CT-VKS-DA ngày 28 tháng 19 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Văn Đ phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đồng thời đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, r, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 25.000.000 đồng đến 27.000.000 đồng.

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Trần Văn Đ từ 25.000.000 đồng đến 27.000.000 đồng * Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn H nộp 3.010.000 đồng và bị cáo Trần Văn Đ nộp 11.000.000 đồng (khấu trừ số tiền 2.000.000 đồng thu giữ của bị cáo Đ) là tiền thu lợi bất chính để sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 230 màu xám, kèm sim số 0965.222.575 của Trần Văn Đ và 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme màu xám, kèm sim số 0962.957.253 của Nguyễn Văn H sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Đối với các sim số 0965.222.575 và sim số 0962.957.253 của Trần Văn Đ và Nguyễn Văn H sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, xử lý vật chứng đồng thời các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 15 giờ 40 phút ngày 01/8/2019 và 17 giờ 45 phút ngày 02/8/2019, tại khu phố Th Nh 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Nguyễn Văn H và Trần Văn Đ đánh bạc dưới hình thức mua bán số đề bằng tin nhắn điện thoại. Tổng số tiền các bị cáo dùng đánh bạc là 14.690.000 đồng.

[3] Như vậy, hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Văn Đ đánh bạc dưới hình thức mua bán số đề, tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc 14.690.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 400/CT-VKS-DA ngày 28 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện tuy ít nghiêm trọng, nhưng đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm trật tự công cộng, trật tự xã hội. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được đánh bạc dưới mọi hình thức ăn thua bằng tiền nhằm sát phạt lẫn nhau đều vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc, xem xét tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo đủ để giáo dục cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Xét đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng là giản đơn không có sự cấu kết chặt chẽ, không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội nên không xem là phạm tội có tổ chức. Bị cáo Trần Văn Đ là người mua số đề, còn bị cáo Nguyễn Văn H là người bán số đề.

[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo Nguyễn Văn H đã tự thú về hành vi phạm tội nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo Trần Văn Đ đã đầu thú về hành vi phạm tội nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 [8] Về nhân thân: Các bị cáo là người có nhân thân tốt thể hiện các bị cáo là người chưa có tiền án tiền sự và là người lao động.

[9] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét các bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhất thời phạm tội, có nơi cư trú rõ ràng, là người lao động đồng thời trong thời gian tại ngoại chấp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo, không cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng đủ sức răng đe, giáo dục các bị cáo. Đồng thời do áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo nên cần hủy bỏ các Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 151, 152/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 06 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử đã áp dụng hình phạt chính là phạt tiền đối với các bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[10] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn H nộp 3.010.000 đồng và bị cáo Trần Văn Đ nộp 11.000.000 đồng, được khấu trừ số tiền 2.000.000 đồng thu giữ của bị cáo Đ, bị cáo Đ còn phải tiếp tục nộp 9.000.00 đồng, là tiền thu lợi bất chính để sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Xét 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 230 màu xám, kèm sim số 0965.222.575 của Trần Văn Đ và 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme màu xám, kèm sim số 0962.957.253 của Nguyễn Văn H sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Xét các sim số 0965.222.575 và sim số 0962.957.253 của Trần Văn Đ và Nguyễn Văn H sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[11] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Văn Đ phạm tội “Đánh bạc”.

1.1 Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, r, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 25.000.000 (hai mươi lăm triệu) đồng.

Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 151/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 06 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đối với bị cáo Nguyễn Văn H.

1. 2 Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Trần Văn Đ 25.000.000 (hai mươi lăm triệu) đồng.

Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 152/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 06 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đối với bị cáo Trần Văn Đ.

2. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn H nộp 3.010.000 đồng và bị cáo Trần Văn Đ nộp 11.000.000 đồng, được khấu trừ số tiền 2.000.000 đồng theo biên lai thu tiền số 01318 ngày 28/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, bị cáo Đ còn phải tiếp tục nộp 9.000.00 đồng để sung vào Ngân sách Nhà nước - Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 230 màu xám và 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme màu xám (điện thoại không hoạt động, không kiểm tra tình trạng bên trong) - Tịch thu tiêu hủy các sim số 0965.222.575 và sim số 0962.957.253.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/10/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự D A, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Văn Đ, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 379/2019/HS-ST ngày 11/11/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:379/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về