Bản án 378/2020/HS-ST ngày 11/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 378/2020/HS-ST NGÀY 11/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 302/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 396/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2020; đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H (tên gọi khác H M), sinh năm 1972 tại tỉnh Thái Bình; thưng trú: thôn N, xã T, huyện H, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Công H, sinh năm: 1938 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm: 1942; có 01 em, sinh năm: 1979; có vợ tên Trần Thị Phương T, sinh năm 1974, có 03 con, lớn nhất sinh năm: 2000, nhỏ nhất sinh năm: 2013;

Tiền án: Ngày 22/11/2018, Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước xử phạt 04 tháng 10 ngày tù về Tội bắt, giữ người trái pháp luật theo bản án số 95/2018/HSST (bằng với thời gian bị cáo tạm giữ, tạm giam)

- Tiền sự: Ngày 28/6/2019, Ủy ban nhân dân phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An ( nay là thành phố Dĩ An), tỉnh Bình Dương ra Quyết định số 324/QĐ-UBND về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại phường đến Ngày 28/9/2019 chấp hành xong quyết định giáo dục tại phường.

- Nhân thân: Ngày 15/5/2003, Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 35/HSST. Đến ngày 20/11/2003 (chấp hành xong).

- Ngày 24/7/2009, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức theo bản án số 216/2009/HSST. Ngày 08/9/2009 chấp hành xong.

- Ngày 05/4/2013, Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 03 tháng 09 ngày tù về tội Đánh bạc theo bản án số 106/2013/HSST (đã chấp hành xong ).

- Ngày 02/02/2005, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số 601/QĐ-UB về việc đưa vào Cơ sở chữa bệnh do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 29/12/2006 đã hoàn thành thời gian cai nghiện ma túy.

- Ngày 19/01/2007, Lực lượng Thanh niên xung phong Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 13364/QĐ-TNXP về việc chuyển người sau cai nghiện vào cơ sở giải quyết việc làm, tuy nhiên vào ngày 16/9/2007 bị can Hùng đã có hành vi trốn khỏi Trường Giáo dục đào tạo và Giải quyết việc làm số 3; Bị bắt tạm giam ngày 07/4/2020, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Người chứng kiến: u Thị T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12 giờ ngày 05/4/2020, Nguyễn Văn H đi đến khu vực cầu Giáp Văn K thuộc phường T, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh gặp người đàn ông, nhờ mua dùm ma túy về sử dụng. H đưa cho người đàn ông 2.600.000 đồng, nhờ mua 2.500.000 đồng ma túy, còn lại số tiền 100.000 đồng H trả công cho người đàn ông này. Khoảng 30 phút sau, người đàn ông quay trở lại đưa cho H 02 bịch ma túy đá, đựng trong túi nylon miệng kéo dính và 04 viên nén ma túy màu đỏ. Sau khi nhận số ma túy mua được, H cất giấu vào trong bao thuốc lá hiệu Richmond, bỏ vào túi áo phía trước bên trái rồi đi về nhà. Khi về nhà, H cất bao thuốc lá hiệu Richmond chứa ma túy vào trong vỏ cây thuốc lá hiệu Richmond, để trên két sắt đặt trong góc phải phòng ngủ của hai vợ chồng Hùng trên tầng 1 và để sử dụng dần.

Đến khoảng 21 giờ ngày 07/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn H phát hiện, thu giữ trong vỏ cây thuốc lá nhãn hiệu Richmond để trên két sắt đặt trong góc phải phòng ngủ của vợ chồng H trên tầng 1 bên trong có vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Richmond chứa; 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 túi nylon miệng kéo dính chứa; 03 viên nén màu đỏ và một phần viên nén màu đỏ đều, đồng thời thu giữ trong phòng thờ trên tầng 1, gồm: 01 nỏ thủy tinh; 01 ống hút bằng nhựa; 01 bình thủy tinh và 02 cây kéo bằng inox dài khoảng 07cm được H dùng làm dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An tiến hành lập biên bản, giữ người trong trường hợp khẩn cấp, thu giữ vật chứng đưa H về trụ sở làm việc.

Vật chứng thu giữ; xử lý vật chứng: 01túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng trọng lượng: 1,0132 gam; 01 túi nylon miệng kéo dính chứa 03 viên nén màu đỏ và một phần viên nén màu đỏ, có trọng lượng: 0,3692 gam.

+ 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút bằng nhựa, 01 bình thủy tinh và 02 cây kéo bằng inox dài khoảng 07cm.

Căn cứ Kết luận giám định số 202/MT-PC09 ngày 15/42020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương: Mẫu tinh thể, 03 viên nén màu đỏ và một phần viên nén màu đỏ gửi giám định là ma túy, có trọng lượng: 1,0132 gam (M1); 0,3692 gam (M2) loại Methamphetamine.

Đi với người đàn ông mua dùm ma túy cho H tại khu vực Giáp Văn K thuộc phường T, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, chưa rõ nhân thân, lai lịch, tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Tại cáo trạng số 337/CT-VKS ngày 20 tháng 7 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H, mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy, ma túy còn lại sau giám định: 01 túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng là ma túy đá có trọng lượng: 0,9670 gam; 01 túi nylon miệng kéo dính chứa viên nén màu đỏ có trọng lượng: 0,1992 gam điều là ma túy loại Methamphetamine và 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút bằng nhựa, 01 bình thủy tinh và 02 cây kéo bằng inox dài khoảng 07cm.

Bị cáo có đơn xét xử vắng mặt và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Tại cơ quan điều tra, người chứng kiến không có ý kiến gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nội dung vụ án: Khoảng 21 giờ ngày 07 tháng 4 năm 2020, tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn H tại số Nguyễn Thị C, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương, phát hiện H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, có tổng trọng lượng 1,1662 gam, loại Methamphetamine.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, trọng lượng: 1,1662 gam, loại Methamphetamine do Nguyễn Văn H thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Như vậy Cáo trạng số 337/CT–VKS ngày 20 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự và nghiện ma túy.

[7] Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định, gồm: 01 túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng là ma túy đá có trọng lượng: 0,9670 gam; 01 túi nylon miệng kéo dính chứa viên nén màu đỏ có trọng lượng: 0,1992 gam điều là ma túy loại Methamphetamine và 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút bằng nhựa, 01 bình thủy tinh và 02 cây kéo bằng inox dài khoảng 07cm.

[8] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[9] Đối với người đàn ông bán ma túy cho H, do chưa xác định được lai lịch, địa chỉ khi nào xác minh được sẽ tiến hành xử lý sau.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/4/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tch thu tiêu 01 túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng là ma túy đá có trọng lượng: 0,9670 gam; 01 túi nylon miệng kéo dính chứa 03 (ba) viên nén màu đỏ có trọng lượng: 0,1992 gam điều là ma túy loại Methamphetamine và 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút bằng nhựa, 01 bình thủy tinh và 02 cây kéo bằng inox dài khoảng 07cm.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/7/2020, bút lục 202).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo, vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 378/2020/HS-ST ngày 11/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:378/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về