Bản án 37/2020/HS-ST ngày 28/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 37/2020/HS-ST NGÀY 28/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 34/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Trn Công D (D Gà Tre), sinh năm 1979, tại thành phố H; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số A, khóm B, Phường A, Quận A, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): 3/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C (đã chết) và bà Phạm Thị Thanh N; có vợ là Lê Thị Kiều L và 02 con sinh năm 1997, 2007;

Tin án, tiền sự: chưa;

Nhân thân: Ngày 05/01/2005, bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong ngày 29/7/2006.

Bị tạm giữ từ ngày 03/3/2020 đến ngày 12/3/2020 chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt.

Ngưi làm chứng:

- Bà Lê Thị Kiều L; có mặt.

- Ông Lê Phước S; vắng mặt.

- Ông Đặng Văn P; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ 30 phút ngày 03/3/2020, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, Công an xã H phối hợp Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Ma túy Công an huyện C bắt quả tang Trần Công D tàng trữ trái phép chất ma túy tại nhà thuộc tổ A, ấp A, xã H, thu giữ 01 bịch nilon được hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, 01 bịch nilon có rãnh kéo 01 đầu viền màu đỏ bên trong chứa 01 viên nén màu đỏ để trong ngăn tủ và bàn gỗ trong phòng ngủ của D và các vật chứng khác có liên quan. D khai chất tinh thể màu trắng và viên nén màu đỏ là ma túy đá, mua ở thành phố H với số tiền 800.000 đồng, mục đích để sử dụng.

- Vật chứng thu giữ: 01 bịch nilon được hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, 01 bịch nilon có rãnh kéo 01 đầu viền màu đỏ bên trong chứa 01 viên nén màu đỏ, 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống nhựa màu đen, 01 hộp giấy cạt tông.

- Căn cứ Kết luận giám định số 54/KLGT-PC09(MT) ngày 09/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A kết luận: Mẫu gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,2818 gam.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới khởi tố, tạm giam D để điều tra xử lý.

Ti Cáo trạng số 34/CT-VKSCM ngày 29 tháng 7 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Trần Công D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Ti phiên tòa, - Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử xử phạt nhẹ.

- Người làm chứng bà Lê Thị Kiều L cung cấp lời khai như đã khai trong giai đoạn điều tra.

- Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Pháp luật nghiêm cấm việc sử dụng, tàng trữ, vận chuyển, mua bán ma túy dưới mọi hình thức. Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã hội và tội phạm. Về nhân thân, bị cáo có nhân thân xấu do đã bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” vào ngày 05/01/2005. Cho nên, đề nghị xử phạt nghiêm bị cáo.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Cho nên, đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về hình phạt bổ sung, do bị cáo nghiện ma túy, không có nghề nghiệp nên đề nghị miễn áp dụng đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng các Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy lượng ma túy và 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống nhựa màu đen, 01 hộp giấy cạt tông bị thu giữ do không còn giá trị sử dụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Mới, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo, bị cáo Trần Công D khai nhận, ngày 02/3/2020, bị cáo đến thành phố H mua 02 bịch ma túy (01 bịch chứa chất tinh thể màu trắng và 01 bịch có rãnh kéo 01 đầu viền màu đỏ bên trong có 01 viên nén màu đỏ) của 01 người thanh niên (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể), với số tiền 800.000 đồng. Bị cáo mang về nhà lấy một phần sử dụng, còn lại hàn kín, cất giấu trong ngăn tủ và bàn gỗ trong phòng ngủ của bị cáo. Đến khoảng 09 giờ 30 phút ngày 03/3/2020, khi bị cáo đang ở trong phòng ngủ tại nhà thì lực lượng Công an kiểm tra, thu giữ 01 bịch nilon được hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, 01 bịch nilon có rãnh kéo 01 đầu viền màu đỏ bên trong chứa 01 viên nén màu đỏ để trong ngăn tủ và bàn gỗ trong phòng ngủ của bị cáo và các vật chứng khác có liên quan.

Li nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra; phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác gồm: biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 03/3/2020 do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới lập; biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 03/3/2020 cùng sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường kèm theo do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới lập; lời khai của ông Lê Phước S, ông Đặng Văn P về việc chứng kiến Công an khám xét, thu giữ 01 bịch nilon được hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, 01 bịch nilon có rãnh kéo 01 đầu viền màu đỏ bên trong chứa 01 viên nén màu đỏ để trong ngăn tủ và bàn gỗ trong phòng ngủ của bị cáo và các vật chứng khác có liên quan vào khoảng 09 giờ 30 phút ngày 03/3/2020. Khi đó, bị cáo khai chất tinh thể rắn, viên nén màu đỏ bên trong các bịch nilon là ma túy.

Bên cạnh đó, lời khai của bị cáo còn phù hợp với vật chứng bị thu giữ khi bắt quả tang gồm: 01 bịch nilon được hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, 01 bịch nilon có rãnh kéo 01 đầu viền màu đỏ bên trong chứa 01 viên nén màu đỏ, 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống nhựa màu đen, 01 hộp giấy cạt tông.

Theo Kết luận giám định số 54/KLGT-PC09(MT) ngày 09/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A, chất tinh thể màu trắng, viên nén màu đỏ bên trong các bịch nilon thu giữ của bị cáo được giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,2818 gam.

Từ các căn cứ trên có cơ sở xác định, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2818 gam.

Bị cáo là người thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước nhưng vẫn cố ý thực hiện thông qua việc cất giấu ma túy và sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân, ma tuý là chất gây nghiện. Một khi đã sử dụng thì khó có thể từ bỏ được. Chúng được xem nguyên nhân làm suy giảm sức khỏe, suy thoái nòi giống. Tệ nạn ma tuý còn được xem là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội, tội phạm, làm lan truyền đại dịch HIV/AIDS, ảnh hưởng nghiêm trọng trật tự, an toàn xã hội.

Bị cáo là người thành niên, đang ở tuổi lao động nhưng lại lao vào con đường nghiện ngập. Để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng lớn đến công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy mà Nhà nước, xã hội đang ra sức thực hiện. Bên cạnh đó, bị cáo có nhân thân không tốt do nghiện ma túy trong khoảng thời gian dài và đã bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” vào ngày 05/01/2005. Do đó, cần có hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như trước phiên toà hôm nay, bị cáo đã tỏ rõ thái độ thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Vì vậy, cần xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung, xét bị cáo không có nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm của những người liên quan:

Bị cáo khai, lượng ma túy bị thu giữ được bị cáo mua của 01 người thanh niên tại thành phố H vào ngày 02/3/2020. Tuy nhiên, bị cáo không cung cấp được họ tên, địa chỉ của người bán ma túy cho bị cáo. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới tiếp tục làm rõ xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Lưng ma túy bị thu giữ khi bắt quả tang bị cáo là vật cấm lưu hành; 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống nhựa màu đen, 01 hộp giấy cạt tông là vật được dùng vào việc sử dụng ma túy, có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội và không còn giá trị sử dụng. Vì vậy, tịch thu tiêu hủy lượng ma túy, các vật dụng này này theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Trần Công D (D Gà Tre) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy;

Xử phạt: Trần Công D: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thi hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị giữ, ngày 03/3/2020 (ngày ba, tháng ba, năm hai nghìn không trăm hai mươi).

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tch thu, tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì được niêm phong (Vụ số 54/KLGT-PC09MT(MT) ngày 09/3/2020) có in hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang và chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng K, Đặng Hữu T. Bên trong có mẫu vật còn lại sau khi giám định:

+ Mẫu M1, khối lượng 0,0425g (không phẩy không bốn hai năm gam).

+ Mẫu M2, khối lượng 0,1439g (một phẩy một bốn ba chín gam).

- 01 (một) bình thủy tinh, có gắn nỏ thủy tinh và ống nhựa màu đen.

- 01 (một) hộp giấy cạt tông.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/8/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới với Chi cục Thi hành án dân sự huyện C).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buc bị cáo Trần Công D phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2020/HS-ST ngày 28/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về