Bản án 37/2019/HS-ST ngày 28/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 37/2019/HS-ST NGÀY 28/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 5 năm 2019, tại Phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2019/TLST – HS ngày 19 tháng 4 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2019/QĐXXST ngày 14 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo :

Đỗ Văn T1 sinh ngày 07 tháng 10 năm 1991 Nơi cư trú: thôn N, xã T, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa : 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam Con ông Đỗ Văn T2, sinh năm 1964, con bà Mai Thị O, sinh năm 1966. Bị cáo chưa có vợ con Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Còn nhỏ được gia đình nuôi cho ăn học hết lớp 9/12. Đến tháng 2 năm 2010 tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam đến tháng 08 năm 2011 xuất ngũ về địa phương.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/02/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ công an huyện Thái Thụy. ( Có mặt )

Người có quyền lợi, nhĩa vụ liên quan:

Anh: Trần Văn N, sinh năm 1980 ( Có mặt ) Nơi cư trú: thôn C, xã A, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình Bà: Mai Thị Oanh, sinh năm 1966 ( Có mặt ) Nơi cư trú: thôn N, xã T, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Người chứng kiến Ông: Nguyễn Duy T3, sinh năm 1967 ( Vắng mặt ) Anh: Nguyễn Duy Đ, sinh năm 1994 ( Vắng mặt ) Đều cư trú tại: thôn B, xã Q, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy, nên khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 19/02/2019, Đỗ Văn T1 đi xe mô tô biển kiểm soát 17K8- 4967 từ nhà ra khu vực Chợ Đ, huyện B, thành phố P gặp và mua của một người đàn ông khoảng 37 tuổi nhưng không biết tên tuổi, địa chỉ 01 gói ma túy loại Hêrôin với giá 450.000 đồng, T1 cất gói ma túy mua được vào túi quần bên phải phía trước đang mặc rồi đi về nhà. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, Tuấn về tới khu vực cầu Ph thuộc địa phận thôn B, xã Q, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình thì bị Công an huyện Thái Thụy phát hiện, kiểm tra người Tuấn thu giữ trong túi quần bên phải phía trước của T1 đang mặc 01 gói được gói bằng giấy tráng kim loại màu trắng, mở ra bên trong có chất bột màu trắng dạng cục, T1 khai đó là Hêrôin, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Cơ quan điều tra Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, quản lý và niêm phong vật chứng gửi giám định.

Ti bản kết luận giám định số 38/KLGĐ – PC 09 ngày 19/02/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận “ Mẫu số A1 gửi giám định thu giữ của Đỗ Văn T1 là ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng là 0,3370 gam ” Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Văn T1 không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận giám định nêu trên.

Bn cáo trạng số 35/CT- VKSTT ngày 18 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo Đỗ Văn T1 về tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy " theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Đỗ Văn T1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

Anh Trần Văn N trình bày: Bị cáo T1 là em rể anh, chiếc xe mô tô biển kiểm soát 17K8- 4967 bị cáo dùng làm phương tiện đi mua ma túy là của anh, anh cho bố mẹ vợ là ông Đỗ Văn T2 và bà Mai Thị O mượn để đi làm. Hiện chiếc xe mô tô trên cơ quan điều tra đã trả lại cho anh, anh không có ý kiến gì.

Bà Mai Thị O trình bày: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 17K8- 4967 bị cáo dùng làm phương tiện đi mua ma túy là của anh N ( con rể bà ) cho vợ chồng bà mượn để đi lại, bị cáo T lấy xe đi mua ma túy bà không biết. Hiện chiếc xe mô tô trên cơ quan điều tra đã trả lại cho anh N, bà không có ý Luận tội của kiểm sát viên: Vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản riêng; trả lại bị cáo chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung đã qua sử dụng, tịch thu tiêu hủy số ma túy là Hêrôin thu giữ của bị cáo; buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và nói lời sau cùng: Bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

n cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác vắng mặt được công bố tại phiên tòa .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dan huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Những người chứng kiến vắng mặt nhưng tại giai đoạn điều tra họ đã có lời khai đầy đủ lưu trong hồ sơ vụ án nên sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án [3]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Đỗ Văn T1 khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã xác định. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, truy tố phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, các biên bản quản lý niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[4]. Như vậy đủ căn cứ để xác định: Khong 12 giờ 30 phút, ngày 19/02/2019, tại khu vực cầu Phao thuộc địa phận thôn B, xã Q, huyện Thái Thụy, công an huyện Thái Thụy phát hiện bắt quả tang Đỗ Văn T1 có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy, loại Hêrôin có khối lượng 0, 3370 gam, mục đích để sử dụng. Hành vi đó đã phạm vào tội " Tàng trái phép chất ma túy " quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Điu 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm c). Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản

[5]. Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi giống, làm khánh kiệt về kinh tế, là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn cho xã hội do đó cần phải quyết định một hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có thời gian 02 năm tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam, vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo phấn đấu trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[6]. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo bản thân là đối tượng nghiện ma túy, lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7]. Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo khai mua của một người đàn ông khoảng 37 tuổi, không biết tên, đặc điểm nhận dạng, địa chỉ cụ thể ở khu vực Chợ Đ, huyện B, thành phố P nên cơ quan công an huyện Thái Thụy không có căn cứ để xác minh xử lý.

[8]. Về xử lý vật chứng của vụ án: Số ma túy cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo có khối lượng 0,3370 gam, sau khi lấy mẫu giám định còn lại là 0,3140 gam, đây là vật nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay đã xác định chiếc điện thoại di động này không liên quan gì đến việc phạm tội nên cần tuyên trả lại bị cáo. Trong quá trình điều tra cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 17K8- 4967 cho anh Trần Văn N là đúng quy định của pháp luật.

[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố : Bị cáo Đỗ Văn T1 phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy "

2.Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T1 01 năm tù 03 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19 tháng 02 năm 2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo 3.Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ 0,3140 gam Hêrôin còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định thu giữ của bị cáo Đỗ Văn T1. Trả lại bị cáo Đỗ Văn T1 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung đã qua sử dụng. ( Tất cả vật chứng như trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữ cơ quan công an và Chi cục thi hành án huyện Thái Thụy ngày 18 tháng 4 năm 2019 )

4.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 về Án phí, Lệ phí Tòa án Bị cáo Đỗ Văn T1 phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm .

5. Về quyền kháng cáo bản án: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HS-ST ngày 28/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về