Bản án 368/2019/DS-ST ngày 17/09/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 368/2019/DS-ST NGÀY 17/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 17 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 587/2018/TLST-DS ngày 21 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 146/2019/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 107/2019/QĐST-DS ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, giữa:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần S.

Địa chỉ trụ sở chính: Số 266-268 Đường A, Phường L, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:

Ông Lã Ngọc Q, sinh năm 1970 (xin vắng mặt).

Địa chỉ: Số 266-268 Đường A, Phường L, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Văn bản ủy quyền ngày 06/12/2018).

2. Bị đơn: Bà Trần Thị Phương T, sinh năm 1977 (vắng mặt).

Địa chỉ: Số 550/7 Đường S, Phường O, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 06/12/2018 của Ngân hàng Thương mại cổ phần S cùng bản khai trình bày của ông Lã Ngọc Q là người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng Thương mại cổ phần S:

Ngày 05/9/2014, bà Trần Thị Phương T có ký với Ngân hàng Thương mại cổ phần S hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản điều khoản, điều kiện phát hành và sử dụng thẻ của ngân hàng – các tài liệu này được gọi chung là hợp đồng). Căn cứ theo thu nhập và đề nghị của bà T, ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng cho bà T với hạn mức sử dụng là 10.000.000 (mười triệu) đồng với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bà T đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 14.759.689 (mười bốn triệu, bảy trăm năm mươi chín nghìn, sáu trăm tám mươi chín) đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ từ ngày kích hoạt đến nay bà T đã thanh toán cho ngân hàng số tiền 13.066.000 (mười ba triệu, không trăm sáu mươi sáu nghìn) đồng. Tính đến ngày 17/9/2019 bà T còn nợ ngân hàng số nợ tổng cộng là 24.499.677 (hai mươi bốn triệu, bốn trăm chín mươi chín nghìn, sáu trăm bảy mươi bảy) đồng {trong đó nợ vốn gốc 10.792.821 (mười triệu, bảy trăm chín mươi hai nghìn, tám trăm hai mươi mốt) đồng, lãi quá hạn 13.706.856 (mười ba triệu, bảy trăm lẻ sáu nghìn, tám trăm năm mươi sáu) đồng}. Mặc dù đã được nhắc nhở nhiều lần, nhưng bà T không có thiện chí trả nợ. Kể từ ngày 06/12/2016 ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn.

Nay ngân hàng yêu cầu bà T trả ngay số nợ trên một lần cùng tiền lãi phát sinh theo hợp đồng cho đến khi thanh toán xong nợ. Ngoài ra ngân hàng không còn ý kiến, yêu cầu nào khác.

* Bị đơn bà Trần Thị Phương T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không lý do trong suốt quá trình Tòa án tiến hành tố tụng và cũng không có văn bản trình bày ý kiến.

Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Phía Ngân hàng Thương mại cổ phần S xác nhận đã giao nộp đủ chứng cứ. Phía bị đơn bà Trần Thị Phương T mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt tại Tòa, nên Tòa án không thể tiến hành phiên hòa giải mà quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S ông Lã Ngọc Q có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt.

- Bị đơn bà Trần Thị Phương T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không lý do tại phiên tòa lần thứ hai và cũng không có văn bản trình bày ý kiến.

+ Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Tòa án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, ra Thông báo thụ lý vụ án đúng pháp luật, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp. Thẩm phán ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng pháp luật. Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng những quy định về thủ tục tố tụng.

- Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S là có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, sau khi nghe Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án:

Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S khởi kiện bị đơn bà Trần Thị Phương T để đòi số nợ vốn, lãi còn thiếu trong hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng mà đôi bên đã ký kết với nhau và bị đơn bà Trần Thị Phương T có địa chỉ cư trú tại Quận C, nên đây là tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh theo như quy định tại Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về tư cách tham gia tố tụng của các đương sự:

Ngân hàng Thương mại cổ phần S khởi kiện bà Trần Thị Phương T để đòi số nợ còn thiếu trong hợp đồng sử dụng thẻ mà các bên đã ký kết với nhau, nên Ngân hàng Thương mại cổ phần S tham gia tố tụng trong vụ án này với tư cách tố tụng là nguyên đơn, bà Trần Thị Phương T là bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về ủy quyền tham gia tố tụng:

Văn bản ủy quyền ngày 06/12/2018 của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S ủy quyền cho ông Lã Ngọc Q đại diện tham gia tố tụng là hợp lệ, được Tòa án chấp nhận. Ông Lã Ngọc Q được quyền tham gia tố tụng trong việc giải quyết vụ án này tại Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.

[4] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng:

- Bị đơn bà Trần Thị Phương T mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai nên Tòa án xét xử vắng mặt bà Trẩn Thị Phương T là đúng theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Phía nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S có ông Lã Ngọc Q đại diện theo ủy quyền có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt là hợp lệ, được Tòa án chấp nhận xét xử vắng mặt là đúng theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[5] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S:

Căn cứ hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 05/9/2014 và bản điều khoản, điều kiện phát hành và sử dụng thẻ do Ngân hàng Thương mại cổ phần S và bà Trần Thị Phương T ký kết với nhau, cùng các bản sao kê do phía nguyên đơn ngân hàng cung cấp thể hiện bị đơn bà Trần Thị Phương T có thực hiện các giao dịch với phía ngân hàng và hiện còn nợ số tiền như đã nêu trên. Phía nguyên đơn ngân hàng cũng nhiều lần nhắc nợ, nhưng bị đơn bà Trần Thị Phương T cũng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ. Mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bị đơn bà Trần Thị Phương T vẫn vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án tiến hành tố tụng. Nay nguyên đơn ngân hàng yêu cầu bị đơn bà Trần Thị Phương T thanh toán số nợ còn thiếu trong hợp đồng như nêu trên là có cơ sở vì bị đơn bà Trần Thị Phương T đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ mà đôi bên đã thỏa thuận với nhau trong hợp đồng sử dụng thẻ, nếu tiếp tục kéo dài thời gian trả nợ sẽ làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Do vậy, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S buộc bị đơn bà Trần Thị Phương T phải thanh toán số nợ trên cùng tiền lãi phát sinh tiếp theo trong hợp đồng sử dụng thẻ cho đến khi thanh toán hết nợ cho phía nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S là có cơ sở. Cụ thể bị đơn bà Trần Thị Phương T phải trả cho nguyên đơn ngân hàng số tiền vốn lãi tổng cộng tính đến hết ngày 17/9/2019 là 24.499.677 (hai mươi bốn triệu, bốn trăm chín mươi chín nghìn, sáu trăm bảy mươi bảy) đồng {trong đó nợ vốn gốc 10.792.821 (mười triệu, bảy trăm chín mươi hai nghìn, tám trăm hai mươi mốt) đồng, lãi quá hạn 13.706.856 (mười ba triệu, bảy trăm lẻ sáu nghìn, tám trăm năm mươi sáu) đồng} cùng tiền lãi phát sinh theo hợp đồng được tính tiếp theo từ ngày 18/9/2019 cho đến khi thanh toán xong các khoản nợ.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S được Tòa án chấp nhận buộc bị đơn bà Trần Thị Phương T phải thanh toán nợ, nên bị đơn bà Trần Thị Phương T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 3, Điều 6 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản1, khoản 3 Điều 228; Điều 271 và khoản 1, khoản 3 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 471, 474 và Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005; Căn cứ vào khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

Căn cứ vào Điều 3, Điều 6 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S.

1. Buộc bị đơn bà Trần Thị Phương T trả cho nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S số tiền vốn lãi tổng cộng tính đến hết ngày 17/9/2019 là 24.499.677 (hai mươi bốn triệu, bốn trăm chín mươi chín nghìn, sáu trăm bảy mươi bảy) đồng {trong đó nợ vốn gốc 10.792.821 (mười triệu, bảy trăm chín mươi hai nghìn, tám trăm hai mươi mốt) đồng, lãi quá hạn 13.706.856 (mười ba triệu, bảy trăm lẻ sáu nghìn, tám trăm năm mươi sáu) đồng} cùng tiền lãi phát sinh theo hợp đồng được tính tiếp theo từ ngày 18/9/2019 cho đến khi thanh toán xong nợ.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: 1.224.983 (một triệu, hai trăm hai mươi bốn nghìn, chín trăm tám mươi ba) đồng, bị đơn bà Trần Thị Phương T chịu. Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại cho nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S số tiền tạm ứng án phí 504.226 (năm trăm lẻ bốn nghìn, hai trăm hai mươi sáu) đồng đã tạm nộp theo biên lai thu tiền số AA/2018/0016744 ngày 13/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S và bị đơn bà Trần Thị Phương T không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

4. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã được sửa đổi bổ sung năm 2014)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 368/2019/DS-ST ngày 17/09/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:368/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:17/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về