Bản án 366/2019/HS-ST ngày 29/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 366/2019/HS-ST NGÀY 29/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 29 tháng 07 năm 2019, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 370/2019/TLST-HS ngay 04 tháng 07 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 387/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 07 năm 2019 đối với bị cáo:

Đặng Tùng L - sinh ngày 09/10/1967, tại Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT: xóm X, xã SC, TPTN, tỉnh TN, nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Con ông: Đặng Ngọc B (đã chết) và bà: Khương Thị Q (đã chết), gia đình bị cáo có 08 anh chị em, bị cáo là con thứ năm; Vợ: Trần Thị T, sinh năm 1970, có 02 con chung, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: 01- Tại bản án số 132/2012/HSST ngày 26/4/2012 Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bị cáo đã thi hành xong án phí ngày 29/10/2012 và chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/01/2014.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/3/2019 cho đến nay tại Trại tạm giam công an tỉnh Thái Nguyên – Có mặt tại phiên tòa.

*Ngưi chứng kiến:

1) Ông Bùi Đình T1, sinh năm 1956 (vắng mặt)

Trú tại: tổ Y, phường TL, TPTN, tỉnh TN;

2) Ông Trần Quang D, sinh năm 1964 (vắng mặt)

Trú tại: tổ Z, phường TL, TPTN, tỉnh TN

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ ngày 26/3/2019 Đặng Tùng L đi bộ từ nhà xuống khu vực phường TL tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân, khi đi đến khu vực phường TL tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân, khi đi đến khu vực tổ X, phường TL thì gặp một nam thanh niên không quen biết hỏi mua 01 gói ma túy với giá 150.000 đồng được gói bằng giấy bạc màu vàng. Sau khi mua được ma túy L cầm trong lòng bàn tay phải tìm nơi sử dụng thì bị tổ công tác công an thành phố Thái Nguyên kiểm tra hồi 19 giờ 50 phút bị bắt giữ cùng ngày tại tổ X, phường TL, thành phố Thái Nguyên. Quá trình kiểm tra tổ công tác đã thu tại lòng bàn tay phải của L 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng, L khai là Heroine. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng, niêm phong theo quy định, cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng chât bôt mau trăng thu gi ữ của Đặng Tùng L có khối lượng 0,169 gam, niêm phong ký hiệu L1 gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 586/KL-PC09 ngày 02/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu L1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,169 gam.

Bn cáo trạng số 366/CT-VKSTPTN ngày 02 tháng 07 năm 2019 của Viên kiêm sat nhân dân thành ph ố Thái Nguyên , tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Đặng Tùng L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đặng Tùng L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Đặng Tùng L từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy phong bì niêm phong ký hiệu L1; Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14 Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2] Nhn định của Hội đồng xét xử về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Đặng Tùng L tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người chứng kiến sự việc, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Nguyên về số chất bột màu trắng được thu của Đặng Tùng L là Heroine. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Do nghiện ma túy hồi 19 giờ ngày 26/03/2019 Đặng Tùng L đi bộ đến khu vực tổ X, phường TL, thành phố Thái Nguyên mua 150.000 đồng của một nam thanh niên không quen biết được 01 gói Heroine với mục đích để sử dụng. Sau khi mua được Heroine L tìm chỗ sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường TL, thành phố Thái Nguyên kiểm tra, bắt giữ thu vật chứng, cân kiểm tra số chất bột màu trắng xác định khối lượng 0,169 gam, giám định là Heroine.

[3] Vi hành vi mua 0,169 gam Heroine với mục đích để sử dụng như trên hành vi của bị cáo Đặng Tùng L đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

[4] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền quản lý, sử dụng độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác. Tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, hành vi của bị cáo không chỉ hủy hoại sức khỏe của bản thân, làm suy thoái giống nòi, làm khánh kiệt kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo phải nhận thức được tác hại của ma túy đối với người sử dụng và đối với xã hội tuy nhiên bị cáo không từ bỏ ma túy mà vẫn mua Heroine phục vụ cho nhu cầu của bản thân.

[5] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Xét nhân thân bị cáo là đối tượng nghiện, năm 2012 đã bị Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đến nay được coi là không có án tích, tuy nhiên sau khi ra trại bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội do đó Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung “phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng....tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét bị cáo là đối tượng nghiện, mua ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân do đó Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Xử lý vật chứng: Đối với bì niêm phong L1 trong có Heroine cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Về nguồn gốc số Heroine Đặng Tùng L khai mua của một người không quen biết, tuy nhiên quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch, địa chỉ, nên chưa có căn cứ xem xét.

[10] Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa xét thấy có phần nghiêm khắc.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Tùng L phạm tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy"

[2] Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt: Đặng Tùng L 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/3/2019.

[3] Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự Quyết định tạm giam bị cáo Đặng Tùng L 45 (Bốn mươi năm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án 

[4] Xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu L1.

(Hiện vật chứng nêu trên đang lưu giữ tại kho của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên theo biên bản giao nhận số 384 lập ngày 27/6/2019).

[5] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Đặng Tùng L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm

[6] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Đặng Tùng L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 366/2019/HS-ST ngày 29/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:366/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về