Bản án 36/2021/HS-PT ngày 14/01/2021 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 36/2021/HS-PT NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 537/2020/TLPT-HS ngày 08 tháng 10 năm 2020 đối với các bị cáo Võ Bảo T và Nguyễn Tấn Đ do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 354/2020/HS-ST ngày 01 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Võ Bảo T (tên gọi khác: T1 cỏ, T1 gold); sinh năm 1989, tại tỉnh B; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xã H, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: ấp 1, xã T, huyện B, Thành phố C; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Không rõ và bà: Võ Thị Thu Vân; có vợ: Võ Thị Thùy Lvà 02 người con (lớn sinh năm 2013 và nhỏ sinh năm 2019); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2007, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” (đã xóa án tích). Năm 2010, bị Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã xóa án tích); bị bắt, tạm giam từ ngày 13/8/2019, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Tấn Đ (tên gọi khác: Đạt Max); sinh năm 1995 tại Thành phố C; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú, ấp 3, xã B1, huyện B, Thành phố C; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Tấn T và bà: Nguyễn Thanh H; vợ: Lê Thị Ngọc C và có 01 người con (sinh năm 2013); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị kết án và xử phạt vi phạm hành chính; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/01/2020, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho các bị cáo Võ Bảo T: Luật sư Nguyễn Thị B- Văn phòng luật sư Long Cường thuộc đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Tấn Đ: Luật sư Nguyễn Kim L thuộc đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngoài ra còn có bị cáo Đặng Minh T và người bị hại không có kháng cáo và không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Bảo T quen biết với anh Trần Phước Đ từ năm 2016, đến tháng 7/2019, giữa T1 và anh Phước Đ xảy ra mâu thuẫn do anh Phước Đ nói xấu T trên mạng xã hội Facebook.

Khoảng 20 giờ ngày 31/7/2019, Võ Bảo T, Nguyễn Tấn Đ, Đặng Minh T và người tên T1 (chưa rõ lịch) ngồi ăn uống tại quán Minh T2 tại ấp 3, xã T, huyện B, Thành phố C. Bảo T kể lại việc anh Phước Đ nói xấu mình trên mạng xã hội, rồi rủ Tấn Đ, T2 và T1 đi đánh anh Phước Đ để trả thù, cả ba đồng ý. Bảo T điều khiển xe gắn máy hiệu Dream (không rõ biển số), Tấn Đ điều khiển xe gắn máy hiệu Vision màu đen (không rõ biển số) và T1 điều khiển xe gắn máy hiệu Sirius màu đỏ đen (không rõ biển số) chở T2 đến vòng xoay đường Nguyễn Văn Linh và Quốc lộ 1A, huyện Bình Chánh để lấy 03 con dao tự chế của một người đàn ông (không rõ lai lịch) mà Bảo T đã đặt mua trên mạng trước đó. Bảo T đưa cho Tấn Đ, T2 mỗi người một con dao, rồi cùng đến nhà của anh Phước Đ, nhưng anh Phước Đ không có ở nhà nên cả nhóm quay về.

Khi cả nhóm đi ngang qua quán karaoke Điểm Hẹn, địa chỉ khu phố 5, thị trấn T, huyện B, Thành phố C, Bảo T nhìn thấy anh Phước Đ đang ngồi nói chuyện với anh Nguyễn Duy K và anh Nguyễn Nhật Tr (là nhân viên của quán) nên Bảo T kêu cả nhóm dừng xe trước cửa quán. T1 đứng ngoài trông xe, sau đó Bảo T và T2, Tấn Đ mỗi người cầm một con dao chạy vào bên trong quán tấn công anhPhước Đ. AnhPhước Đ cầm cây quạt đứng để tại quầy thu ngân chống trả, T2 xông đến cầm dao chém trúng cây quạt, làm rơi con dao, T2 lao vào ôm anhPhước Đ quật ngã xuống nền nhà, Bảo T cầm dao chém khoảng 04 nhát vào lưng và chân của anh Phước Đ; Tấn Đ cũng cầm dao chém nhiều nhát trúng vào tay, chân và lưng của anh Phước Đ. T2 đứng dậy nhặt con dao chém 02 nhát trúng vào tay và đầu của anh Phước Đ. Sau đó cả nhóm rời khỏi quán và đi về hướng cầu Bình Điền. Khi đến bãi đất trống cạnh nhà số khu phố 4, thị trấn T, huyện B, Bảo T dừng xe vứt bỏ áo khoác và nón rồi chở Tấn Đ về nhà. Tại đây, Tấn Đ đưa lại con dao cho Bảo T cất giữ rồi bỏ trốn. Còn T1 chở T2 chạy về Tiền Giang, trên đường bỏ trốn T2 đã vứt con dao ở ven đường. Anh Trần Phước Đ được một số người dân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa huyện Bình Chánh, sau đó được chuyển đến Bệnh viện Quân y 7A điều trị. Đến ngày 30/8/2019, anh Phước Đ được xuất viện.

Tại Bản Kết luận giám định số 693/TgT.19 ngày 09/8/2019 của T1 T2 Pháp y – Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận về thương tích của anh Trần Phước Đ như sau: Vết thương đầu vùng trán trên phải gây lóc mất da, vát mất bên ngoài xương sọ trán khoảng 3x2cm; Vết thương với cánh tay phải gây đứt da, đứt dọc cơ delta, đứt nguyên ủy cơ nhị đầu, gãy mấu dộng lớn xương cánh tay; Vết thương sau vai trái cây đứt da, đứt cơ, gãy mõm cùng vai; Hai vết thương vùng sau ngoài giữa lưng trái gây đứt da cơ, đứt xương sườn 11, tràn khí khoang màng phổi trái; Vết thương mặt sau 1/3 dưới cẳng tay phải gây đứt da kích thước 4x6cm, đứt cơ duỗi cổ tay quay ngắn, dài, duỗi cổ tay trụ, duỗi ngón cái dài, duỗi ngón II đến , gãy 1/3 dưới xương quay; Vết thương mặt sau, trong 1/3 dưới cẳng tay trái gây đứt da 10cm, đứt gân duỗi cổ tay trụ, gân duỗi ngón V, gãy 1/3 dưới xương trụ; Vết thương mặt ngoài 1/3 dưới cẳng chân phải kích thước 8x3cm gãy đứt cơ, gãy mẻ lớn thân xương chày, xương mác; Vết thương gót chân phải gây lóc mất da và một phần xương gót; Hai vết thương tại mặt ngoài 1/3 dưới cẳng chân trái gây đứt da, đứt cơ mác dài, mác ngắn, cơ chày trước, gân duỗi chung các ngón, duỗi ngón cái dài, đứt bó mạch thần kinh chày trước, gãy xương mác, mẻ xương chày; Vết thương bàn chân trái gây đứt mất xương bàn V và ngón V, mỏm cụt xương bàn IV và ngón IV, đứt lìa đốt gần ngón III, mỏm cụt đốt xa ngón 1, mất búp ngón II; Đa vết thương phần mềm gây thủng đứt da; Các thương tích do vật sắc nhọn tác động mạnh gây ra. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 88%. Riêng vết thương lưng trái thấu ngực và hai vết thương tại cẳng chân trái rất nguy hiểm đến tính mạng TrầnPhước Đ. Tất cả các vết thương còn lại cũng gây mất máu, sốc nên cũng rất nguy hiểm đến tính mạng TrầnPhước Đ”.

Ngày 05/8/2019, Võ Bảo T đến Công an huyện Bình Chánh đầu thú và giao nộp hai con dao sử dụng gây án. Ngày 30/01/2020 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Tấn Đ.

Ngày 07/3/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Đặng Minh T để xử lý.

Vật chứng thu giữ: 01 bao vải màu đen; 02 con dao tự chế dài 57,5cm.

Tại bản cáo trạng số 335/CT-VKS-P2 ngày 17 tháng 7 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Võ Bảo T, Nguyễn Tấn Đ và Đặng Minh T về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 354/2020/HS-ST ngày 01/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Võ Bảo T 18 (mười tám) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/8/2019.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Nguyễn Tấn Đ 15 (mười lăm) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/01/2020.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với bị cáo Đặng Minh T; về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm; về lãi suất chậm thi hành án và quyền kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

- Ngày 03/9/2020 bị cáo Võ Bảo T và bị cáo Nguyễn Tấn Đ kháng cáo bản án sơ thẩm xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Võ Bảo T khai nhận có thực hiện hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã xử, nhưng xin giảm nhẹ hình phạt vì hiện nay bị cáo có hoàn cảnh rất khó khăn phải nuôi con còn nhỏ. Sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo đã nộp đủ phần bồi thường thiệt hại cho người bị hại.

Bị cáo Nguyễn Tấn Đ khai nhận có thực hiện hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã xử, nhưng xin giảm nhẹ hình phạt vì bản thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự, sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo đã nộp đủ phần bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Đơn kháng cáo của các bị cáo hợp lệ đủ điều kiện để xem xét theo thủ tục phúc thẩm; Về nội dung đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

- Luật sư bào chữa cho Bị cáo T: Đề nghị xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ như tự nguyện ra đầu thú, thật thà khai báo, ăn năn hối cải, sau khi xét xử sơ thẩm đã bồi thường toàn bộ phần trách nhiệm dân sự, hiện nay gia đình bị cáo có hoàn cảnh rất khó khăn, bị cáo đang nuôi con còn nhỏ. Vì vậy đề nghị chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho Bị cáo T.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo Đ ý kiến: Thống nhất với tội danh mà án sơ thẩm đã tuyên. Ngoài các tình tiết giảm nhẹ như án sơ thẩm đã xem xét, đề nghị xem xét cho bị cáo them tình tiết giảm nhẹ mới đó là sau khi xét xử sơ thẩm đã bồi thường cho người bị hại toàn bộ phần trách nhiệm dân sự, người bị hại có đơn xin giảm hình phạt cho bị cáo. Do đó đề nghị chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo làm trong thời hạn, đủ điều kiện để xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản ghi nhận sự việc, biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập được có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 20 giờ ngày 31/7/2017, tại quán karaoke Điểm Hẹn, địa chỉ khu phố 5, thị trấn T, huyện B, Thành phố C các bị cáo Võ Bảo T, Nguyễn Tấn Đ và Đặng Minh T đã dùng dao chém rất nhiều nhát vào vùng lưng, chân, tay và đầu của bị hại Trần Phước Đ. Tại Bản Kết luận giám định số 693/TgT.19 ngày 09/8/2019 của T1 T2 Pháp y – Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận về thương tích của anh TrầnPhước Đ như sau: Vết thương đầu vùng trán trên phải gây lóc mất da, vát mất bên ngoài xương sọ trán khoảng 3x2cm; Vết thương với cánh tay phải gây đứt da, đứt dọc cơ delta, đứt nguyên ủy cơ nhị đầu, gãy mấu dộng lớn xương cánh tay; Vết thương sau vai trái cây đứt da, đứt cơ, gãy mõm cùng vai; Hai vết thương vùng sau ngoài giữa lưng trái gây đứt da cơ, đứt xương sườn 11, tràn khí khoang màng phổi trái; Vết thương mặt sau 1/3 dưới cẳng tay phải gây đứt da kích thước 4x6cm, đứt cơ duỗi cổ tay quay ngắn, dài, duỗi cổ tay trụ, duỗi ngón cái dài, duỗi ngón II đến , gãy 1/3 dưới xương quay; Vết thương mặt sau, trong 1/3 dưới cẳng tay trái gây đứt da 10cm, đứt gân duỗi cổ tay trụ, gân duỗi ngón V, gãy 1/3 dưới xương trụ; Vết thương mặt ngoài 1/3 dưới cẳng chân phải kích thước 8x3cm gãy đứt cơ, gãy mẻ lớn thân xương chày, xương mác; Vết thương gót chân phải gây lóc mất da và một phần xương gót; Hai vết thương tại mặt ngoài 1/3 dưới cẳng chân trái gây đứt da, đứt cơ mác dài, mác ngắn, cơ chày trước, gân duỗi chung các ngón, duỗi ngón cái dài, đứt bó mạch thần kinh chày trước, gãy xương mác, mẻ xương chày; Vết thương bàn chân trái gây đứt mất xương bàn V và ngón V, mỏm cụt xương bàn IV và ngón IV, đứt lìa đốt gần ngón III, mỏm cụt đốt xa ngón 1, mất búp ngón II; Đa vết thương phần mềm gây thủng đứt da; Các thương tích do vật sắc nhọn tác động mạnh gây ra. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 88%. Riêng vết thương lưng trái thấu ngực và hai vết thương tại cẳng chân trái rất nguy hiểm đến tính mạng TrầnPhước Đ. Tất cả các vết thương còn lại cũng gây mất máu, sốc nên cũng rất nguy hiểm đến tính mạng Trần Phước Đ.

Bản án sơ thẩm tuyên bố các bị cáo Võ Bảo T, Nguyễn Tấn Đ phạm tội “Giết người” được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tính mạng của người khác, gây tác động rất xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Nên cần phải được xử phạt nghiêm khắc để giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Xét các bị cáo không có tình tiết tăng nặng; sau khi phạm tội Bị cáo T ra đầu thú, thật thà khai báo, ăn năn hối cải; đối với bị cáo Đ đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại, gia đình bị cáo có công cách mạng. Tòa án cấp sơ thẩm giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo là có căn cứ.

Sau khi xét xử sơ thẩm, Bị cáo T và bị cáo Đ đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Bị hại Trần Phước Đ có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đ. Xét đây là tình tiết giảm nhẹ mới chưa được xem xét tại cấp sơ thẩm. Do đó chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, lời bào chữa của các Luật sư, sửa một phần bản án sơ thẩm về hình phạt cho bị cáo Võ Bảo T và bị cáo Nguyễn Tấn Đ là có căn cứ.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Võ Bảo T và Nguyễn Tấn Đ kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm quyết định về hình phạt đối với bị cáo Đặng Minh T; về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm; về lãi suất chậm thi hành án không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Võ Bảo T, Nguyễn Tấn Đ. Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số: 354/2020/HS-ST ngày 01/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về hình phạt đối với bị cáo Võ Bảo T và bị cáo Nguyễn Tấn Đ.

2. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Võ Bảo T 17 (mười bảy) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/8/2019. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Đ 14 (mười bốn) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/01/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

4. Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Võ Bảo T, Nguyễn Tấn Đ không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm quyết định về hình phạt đối với bị cáo Đặng Minh T; về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm; về lãi suất chậm thi hành án không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 36/2021/HS-PT ngày 14/01/2021 về tội giết người

Số hiệu:36/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về