TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 666/2017/HS-PT NGÀY 26/09/2017 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 26 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự Thụ lý số 727/2016/TLPT- HS ngày 20/9/2016 đối với bị cáo Mạc Văn N do có kháng cáo của Người đại diện hợp pháp của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2016/HSST ngày 04 tháng 8 năm 2016 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.
* Bị cáo bị kháng cáo: Mạc Văn N, sinh năm 1991; trú tại: Thôn 1, xã P, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; con ông Mạc Văn R, sinh năm 1954 và bà Hoàng Thị V, sinh năm 1954; khi phạm tội đang chung sống như vợ chồng với chị Bùi Thị N, sinh năm 1999; có 01 con, sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; ra đầu thú và bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/10/2015. Có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1972; trú tại: Thôn 1, xã P, huyện T, thành phố Hải Phòng (đã chết).
Người đại diện hợp pháp của người bị hại có kháng cáo: Chị Trần Thị T, sinh năm 1975, là vợ của anh Nguyễn Văn D; trú tại: Thôn 1, xã P, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt tại phiên tòa.
Luật sư Nguyễn Đức N – Công ty luật D thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội bào chữa bảo vệ quyền lợi cho người bị hại. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Khoảng 21h30 phút ngày 25/10/2015, Mạc Văn N đang ngồi chơi cùng với anh Bùi Quang P và anh Nguyễn Hữu H ở đường liên thôn 1, xã P, huyện T thì anh Nguyễn Văn D điều khiển xe mô tô chạy qua, do bị ánh đèn pha xe mô tô của anh D chiếu vào mặt nên N lấy đèn pin của anh Phúc chiếu vào xe mô tô của anh D. Anh D đi đến chỗ ngồi của N, P, H thì dừng xe lại chửi và lấy 01 con dao gấp treo ở chùm chìa khóa xe mô tô dí vào cổ N, thấy N không nói gì nên anh D đi về nhà. N đi theo sau anh D, P và H đi sau cách N khoảng 04 đến 05m. Sau khi đi về nhà, anh D quay lại, tay phải cầm 01 tuýp sắt sáng màu dài 73cm, đường kính 1,8cm đứng đối diện cách N khoảng 0,5m, tay trái túm cổ áo N thì N dùng tay trái gạt tay anh D ra, anh D giơ tuýp sắt vụt vào vai trái của N một cái làm N bước lùi lại, anh D tiếp tục cầm tuýp sắt bằng 2 tay chọc vào bụng làm N ngã ngồi xuống đường. Ngay sau đó, N đứng dậy dùng tay phải rút trong túi quần bên phải ra 01 con dao gấp, vòng hai tay ra sau mở lưỡi dao. Khi anh D dùng tuýp sắt vụt vào chân trái N thì N cầm dao tay phải đâm 01 nhát vào vùng bụng trái của anh D theo hướng từ dưới lên trên, từ sau ra trước rồi bỏ chạy về nhà và vứt con dao xuống sông Kinh Thầy, sau đó đến Cơ quan Công an xã P đầu thú, anh D được mọi người đưa đi bệnh viện Việt Tiệp cấp cứu, song đến sáng ngày 26/10/2015 thì bị chết.
Tại biên bản khám nghiệm hiện trường thể hiện: Trên đường liên xã P, S, N có 01 đám tạp chất màu nâu, kích thước 40cm x 26cm, cách cửa nhà bà Tám 6,2m về phía bắc, cách cổng nhà ông Nguyễn Sỹ N 3,15m; 01 gậy kim loại sáng màu đường kính 1,8cm, dài 73cm, bên trong rỗng; 01 chiếc dép bên trái, 01 chiếc dép bên phải dạng dép nhựa xỏ ngón màu đen, kích thước 24,5cm x 10,5cm.
Tại biên bản khám nghiệm tử thi Nguyễn Văn D xác định: Vùng hạ sườn trái có vết thủng, kích thước 3,8cm x 1,1cm, bờ mép gọn, bên trong góc dưới gọn, góc trên bên ngoài tù hơn. Chiều hướng của vết thương được xác định đi từ trái sang phải, từ dưới lên trên, từ trước ra sau. Tại Bản kết luận giám định số 241/2015/GĐPY ngày 04/11/2015 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Vết thương thấu bụng trên người nạn nhân do vật có đặc điểm sắc, nhọn tác động, nguyên nhân chết do sốc mất máu cấp không hồi phục.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2016/HSST ngày 04/8/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng quyết định:
Tuyên bố bị cáo Mạc Văn N phạm tội Giết người. Áp dụng Khoản 2 Điều 93; Điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt Mạc Văn N 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2015.
Ngoài ra, bản án hình sự sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 15/8/2016 chị Trần Thị T, là vợ anh Nguyễn Văn D, với tư cách là Người đại diện hợp pháp của người bị hại kháng cáo đề nghị xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo, đồng thời đề nghị cấp phúc thẩm xem xét cấp sơ thẩm có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.
Căn cứ vào các chứng cứ đã được Hội đồng xét xử thẩm tra công khai tại phiên tòa, lời khai của các bị cáo, lời khai của đại diện hợp pháp của người bị hại, lời bào chữa của luật sư, đặc biệt căn cứ vào kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra vụ án, cũng như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm cũng như phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Mạc Văn N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã tóm tắt ở trên. Lời khai của bị cáo tại các phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi, biên bản thực nghiệm điều tra, lời khai của những người làm chứng...cho nên Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ căn cứ khẳng định: Mạc Văn N đã thực hiện hành vi dùng dao bấm đâm vào bụng anh D, hậu quả làm anh D bị tử vong. Vì vậy, cũng như Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định, có đủ cơ sở để quy kết bị cáo Mạc Văn N phạm tội Giết người theo quy định tại Điều 93 của Bộ luật Hình sự.
[2] Xét kháng cáo đề nghị tăng hình phạt của Người đại diện hợp pháp của người bị hại, Hội đồng xét xử phúc thẩm đồng tình như đánh giá của cấp sơ thẩm khi cho rằng, trong vụ án này, xuất phát từ việc bị cáo Mạc Văn N bị ánh đèn xe của anh D chiếu vào mặt nên bị cáo đã chiếu đèn pin lại anh D; bị cáo đã bị anh D chửi, dùng dao dí vào cổ đe dọa. Sau khi anh D về nhà đã lấy gậy, quay ra tấn công bị cáo trước. Do bị đánh đau, Mạc Văn N đã dùng dao đâm 01 nhát vào vùng bụng trái của anh D rồi bỏ chạy, hậu quả làm anh Nguyễn Văn D bị tử vong. Như vậy, trong trường hợp này, hành vi của bị cáo bị cấp sơ thẩm truy tố và xét xử về tội Giết người theo quy định tại Khoản 2 Điều 93 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.
Xét về hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo, cho thấy: Trong trường hợp này người bị hại cũng có lỗi. Bị cáo có nhân thân tốt, sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã ra đầu thú, thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo có ý thức khắc phục hậu quả, theo đó đã tác động gia đình bồi thường cho gia đình người bị hại 20 triệu đồng. Thêm nữa, bị cáo có chú ruột là Liệt sĩ, gia đình hoàn cảnh khó khăn…Những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này được quy định tại Điểm b, p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 93 của Bộ luật hình sự thì phạm tội trong trường hợp này bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ như nêu trên và quyết định xử phạt bị cáo với mức hình phạt 12 năm tù là nghiêm minh, đã tương xứng với tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, do đó không có căn cứ chấp nhận đề nghị tăng hình phạt của Người đại diện hợp pháp của người bị hại.
[3] Về việc kháng cáo cho rằng bỏ lọt tội phạm: Quá trình điều tra cũng như tranh tụng tại các phiên tòa đã chứng minh, trong suốt quá trình thực hiện tội phạm hoàn toàn do hành vi của bị cáo Mạc Văn N thực hiện; sau khi gây án bị cáo đã ra đầu thú, thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, không có căn cứ nào xác định những người khác có hành vi giúp sức để đánh giá là đồng phạm với bị cáo, do đó kháng cáo về nội dung này của Người đại diện hợp pháp của người bị hại cũng là không có căn cứ thuyết phục.
[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ vào Điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
QUYẾT ĐỊNH
Không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm; Tuyên bố bị cáo Mạc Văn N phạm tội “Giết người”.
Áp dụng Khoản 2 Điều 93; Điểm b, p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Mạc Văn N 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/10/2015.
Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 666/2017/HS-PT về tội giết người
Số hiệu: | 666/2017/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về