Bản án 36/2020/HS-ST ngày 27/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 36/2020/HS-ST NGÀY 27/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 33/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Hoàng T, sinh năm 1999, tại huyện L, tỉnh Đồng Tháp; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp K, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hoá (học vấn): 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn X và bà Tống Thị M; có vợ là Phạm Thị Kiều T1 và 01 con sinh năm 2018;

Tin án, tiền sự: chưa.

Bị tạm giữ từ ngày 06/6/2020 đến ngày 15/6/2020 chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Ông Nguyễn Hữu P, sinh năm 1974; nơi cư trú: ấp T, thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

- Bà Phạm Thị Kiều T1, sinh năm 2000; nơi cư trú: ấp A, xã A, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.

- Chị Huỳnh Thị Tú T2, sinh ngày 29/4/2002; nơi cư trú: ấp A, xã A, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

Ngưi làm chứng:

- Bà Tống Thị M; có mặt.

- Ông Nguyễn Thành L; vắng mặt.

- Ông Nguyễn Tấn T3; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ 30 phút ngày 06/6/2020, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, Công an xã H phối hợp Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Ma túy Công an huyện C bắt quả tang Lê Hoàng T và Huỳnh Thị Tú T2 (sinh 29/4/2002) đang sử dụng ma túy đá tại phòng trọ số 14 trong nhà trọ V ở ấp A, xã H. Thu giữ ở giường ngủ 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET, bên trong có 03 bịch nilon chứa chất tinh thể màu trắng được hàn kín và nhiều vật chứng khác có liên quan. T khai chất tinh thể màu trắng để trong 03 bịch nilon là ma túy đá, mua ở tỉnh B với giá 5.000.000 đồng, mục đích để sử dụng, khi mua và mang đến nhà trọ T không nói cho T2 biết.

- Vật chứng thu giữ: Thu giữa của T2 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng lắp thẻ sim Viettel số 0379219517; thu giữ của T 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET bên trong có 03 bịch nilon chứa chất tinh thể màu trắng được hàn kín, 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng, 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI màu đen lắp thẻ sim Mobiphone số 0899927826, 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đen không lắp thẻ sim, 01 bóp da màu nâu bên trong có số tiền 1.500.000 đồng, 01 giấy chứng minh nhân dân tên Lê Hoàng T , 01 cân điện tử hiệu Pocket Seale màu đen, 01 chai nhựa hiệu trà xanh 00 có nắp đậy màu đỏ gắn 02 ống nhựa màu tím, trắng và nỏ thủy tinh, 01 xe mô tô và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 66V1-536.55.

- Căn cứ Kết luận giám định số 135/KLGT-PC09(MT) ngày 11/6/2020, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh A, kết luận: Mẫu gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 5,1015 gam.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới khởi tố, tạm giam T để điều tra xử lý.

Ti Cáo trạng số 33/CT-VKSCM ngày 29 tháng 7 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Lê Hoàng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Ti phiên tòa, - Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử xử phạt nhẹ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Phạm Thị Kiều T1, người làm chứng bà Tống Thị M cung cấp lời khai như đã khai trong giai đoạn điều tra.

- Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Ma túy là chất độc hại, ảnh hưởng đến người sử dụng và gây ra nhiều tác hại không lường trước. Cho nên, Nhà nước độc quyền quản lý các chất ma túy và quy định xử lý nghiêm hành vi tàng trữ ma túy trái phép. Bị cáo tàng trữ ma túy sử dụng và rủ T2 cùng sử dụng làm gia tăng số lượng người sử dụng và ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Cho nên, đề nghị xử phạt nghiêm bị cáo.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có ông ngoại, bà nội là người có công với cách mạng. Cho nên, đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 05 năm đến 06 năm tù.

Về hình phạt bổ sung, do bị cáo nghiện ma túy, thu nhập không ổn định nên đề nghị miễn áp dụng đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng các Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy lượng ma túy và các vật dùng được dùng vào việc sử dụng ma túy; tịch thu, sung vào công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI cùng sim số kèm theo do dùng vào việc phạm tội; giao trả lại cho bà T2 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng lắp thẻ sim Viettel số 0379219517; giao trả cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đen không lắp thẻ sim, 01 bóp da màu nâu, số tiền 1.500.000 đồng, 01 giấy chứng minh nhân dân tên Lê Hoàng T và 01 xe mô tô biển số 66V1- 536.55 cùng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Mới, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo, bị cáo Lê Hoàng T khai nhận, ngày 03/6/2020, bị cáo mua của người tên Tuấn M (không rõ họ, địa chỉ) tại tỉnh B 03 bịch ma túy đá với số tiền 5.000.000 đồng để sử dụng. Bị cáo đã sử dụng 02 lần và cất giấu số còn lại. Khoảng 17 giờ ngày 06/6/2020, bị cáo rủ và chở Huỳnh Thị Tú T2 đến nhà trọ V để sử dụng ma túy. Bị cáo không nói cho T2 biết về nguồn gốc và số lượng ma túy mà bị cáo đã mua, mang theo. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, trong lúc bị cáo và T2 sử dụng ma túy tại phòng trọ số 14 thì lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang, thu giữ 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET, bên trong có 03 bịch nilon chứa chất tinh thể màu trắng được hàn kín và nhiều vật chứng khác có liên quan.

Li nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra; phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác gồm: biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 06/6/2020 do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới lập; biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 06/6/2020 cùng sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường kèm theo do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới lập; lời khai của Huỳnh Thị Tú T2 về việc Trinh được bị cáo rủ, chở đến thuê phòng số 14 nhà trọ V để sử dụng ma túy và chứng kiến lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang bị cáo cất giấu 03 bịch ma túy trong vỏ bao thuốc lá hiệu JET ở giường ngủ; lời khai của ông Nguyễn Tấn T3, ông Nguyễn Thành L về việc chứng kiến lực lượng Công an bắt quả tang bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy tại nhà trọ V, thu giữ 03 bịch nilon chứa chất tinh thể màu trắng được hàn kín. Khi đó, bị cáo khai chất tinh thể màu trắng trong bịch nilon bị thu giữ là ma túy đá; lời khai của ông Nguyễn Hữu P (chủ nhà trọ V) về việc bị cáo và T2 có thuê phòng số 14 vào khoảng 17 giờ ngày 06/6/2020 nhưng không biết bị cáo và T2 mang ma túy vào phòng trọ để sử dụng, tàng trữ.

Bên cạnh đó, lời khai của bị cáo còn phù hợp với vật chứng bị thu giữ khi bắt quả tang gồm: 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET bên trong có 03 bịch nilon chứa chất tinh thể màu trắng được hàn kín, 03 điện thoại di động, 01 xe mô tô biển số 66V1-536.55 cùng các vật dụng khác có liên quan.

Theo Kết luận giám định số 135/KLGT-PC09(MT) ngày 11/6/2020, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A, tinh thể màu trắng trong 03 bọc nilon trong suốt thu giữ của bị cáo được giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 5,1015 gam.

Từ các căn cứ trên có cơ sở xác định, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 5,1015 gam.

Bị cáo là người thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước nhưng vẫn cố ý thực hiện thông qua việc cất giấu ma túy và sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân, ma tuý là chất gây nghiện. Một khi đã sử dụng thì khó có thể từ bỏ được. Chúng được xem nguyên nhân làm suy giảm sức khỏe, suy thoái nòi giống. Tệ nạn ma tuý còn được xem là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội, tội phạm, làm lan truyền đại dịch HIV/AIDS, ảnh hưởng nghiêm trọng trật tự, an toàn xã hội.

Bị cáo là người thành niên, đang ở tuổi lao động nhưng lại lao vào con đường nghiện ngập. Để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng lớn đến công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy mà Nhà nước, xã hội đang ra sức thực hiện. Bên cạnh đó, bị cáo có nhân thân không tốt do nghiện ma túy trong khoảng thời gian dài. Do đó, cần có hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như trước phiên toà hôm nay, bị cáo đã tỏ rõ thái độ thành khẩn khai báo. Bị cáo có ông ngoại, bà nội là người có công với cách mạng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Vì vậy, cần xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung, xét bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm của những người liên quan:

Bị cáo khai, lượng ma túy bị thu giữ được bị cáo mua của người tên Tuấn M và nhận ma túy mua từ Tuấn M thông qua người thanh niên lạ. Tuy nhiên, bị cáo không cung cấp được họ tên, địa chỉ của người tên Tuấn M và người thanh niên giao ma túy cho bị cáo. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới tiếp tục làm rõ xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.

T2 có hành vi sử dụng ma túy và đã bị chính quyền địa phương áp dụng biện pháp xử lý hành chính nên không đề xuất xử lý.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Lượng ma túy bị thu giữ khi bắt quả tang bị cáo là vật cấm lưu hành; 01 cây kéo, 01 cân điện tử, 01 chai nhựa hiệu trà xanh 00 có nắp đậy màu đỏ gắn 02 ống nhựa màu tím, trắng và nỏ thủy tinh và 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet là vật được dùng vào việc sử dụng ma túy, chứa ma túy, có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội và không còn giá trị sử dụng. Vì vậy, tịch thu tiêu hủy lượng ma túy, các vật dụng này theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI cùng sim số kèm theo, bị cáo khai sử dụng điện thoại này liên hệ mua ma túy nên là phương tiện phạm tội. Vì vậy, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước tài sản này theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng cùng sim số kèm theo, đây là tài sản thu giữ từ T2, không liên quan đến tội phạm nên giao trả cho T2 theo điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đen không lắp thẻ sim, 01 bóp da màu nâu, số tiền 1.500.000 đồng, 01 giấy chứng minh nhân dân tên Lê Hoàng T, đây là giấy tờ tùy thân, tài sản của bị cáo, không liên quan đến tội phạm nên giao trả lại cho bị cáo theo các điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với xe mô tô biển số 66V1-536.55, bị cáo, bà T1, bà M xác định xe mô tô này là tài sản chung của bị cáo và bà T1. Đồng thời, bà T1 không biết bị cáo sử dụng xe mô tô này làm phương tiện đi lại khi phạm tội nên giao trả cho bà T1 xe mô tô biển số 66V1-536.55 cùng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô bị thu giữ theo khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự [8] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Lê Hoàng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy;

Xử phạt: Lê Hoàng T: 05 (năm) năm tù.

Thi hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị giữ, ngày 06/6/2020 (ngày sáu, tháng sáu, năm hai nghìn không trăm hai mươi).

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào các điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các điểm a, c khoản 2, các điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì được niêm phong (Vụ số 135/KLGT-PC09MT(MT) ngày 11/6/2020) có in hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang và chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng K, Đặng Hữu T. Bên trong có 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Jet và mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 4,9471g (bốn phẩy chín bốn bảy một gam), theo biên bản niên phong lập hồi 14 giờ ngày 12/6/2020.

+ 01 (một) cây kéo bằng kim loại màu trắng, + 01 (một) cân điện tử màu đen, nhãn hiệu POCKET SEALE;

+ 01 (một) chai nhựa nhãn hiệu trà xanh 00, nắp đậy màu đỏ, trên nắp có gắn 02 ống nhựa màu trắng tím và nỏ thủy tinh.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI, lắp thẻ sim mạng Mobiphone.

- Giao trả cho bà Huỳnh Thị Tú T2: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, lắp thẻ sim Viettel.

- Giao trả cho bị cáo:

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, không lắp thẻ sim;

+ 01 (một) bóp da màu nâu;

+ 01 (một) giấy chứng minh nhân dân tên Lê Hoàng Tuấn, sinh ngày 14/7/1999;

- Giao trả cho bà Phạm Thị Kiều T1:

+ 01 (một) xe mô tô biển số 66V1-536.55, nhãn hiệu SUZUKI, số máy CGA1509454, số khung 11ANJV109895;

+ 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 037112 do Công an huyện L, tỉnh Đ cấp ngày 22/5/2018 cho Lê Hoàng T, nơi cư trú ấp K, xã T, huyện L, tỉnh Đ.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/8/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới với Chi cục Thi hành án dân sự huyện C).

- Giao trả cho bị cáo số tiền 1.500.000 (một triệu, năm trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tiền số AA/2017/0001292 ngày 26/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buc bị cáo Lê Hoàng T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bà Phạm Thị Kiều T1 có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của ông Nguyễn Hữu P, bà Huỳnh Thị Tú T2 là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2020/HS-ST ngày 27/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về