Bản án 36/2020/HS-ST ngày 20/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 36/2020/HS-ST NGÀY 20/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 5 năm 2020 tại Toà án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2020/QĐXXST-HS ngày 04/5/2020 đối với bị cáo:

HUỲNH VĂN A, Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1978, tại tỉnh Kiên Giang; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã M, huyện H, tỉnh Kiên Giang; Chỗ ở trước khi bị bắt: ấp 3, xã M, huyện C, tỉnh Bình Phước;Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ: Không; Trình độ học vấn: không biết chữ; Họ và tên cha: Huỳnh Văn L, sinh năm 1938, đã chết; Họ và tên mẹ: Lâm Thị T, sinh năm 1941, đã chết; Anh, chị, em ruột: 06 người. Lớn nhất sinh năm 1956, nhỏ nhất không rõ năm sinh; vợ : không rõ nhân thân; Con: có 01 người, sinh năm 2000; Tiền sự, tiền án: Không; nhân thân: bị cáo chưa lần nào bị xử lý hành chính hoặc xét xử về hành vi vi phạm pháp luật; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/12/2019 đến ngày 24/12/2019 được tại ngoại.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ ngày 19 tháng 12 năm 2019, Huỳnh Văn A gọi điện thoại mua 400.000 đồng ma túy của một đối tượng không rõ nhân thân tại thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước rồi cất giấu trong túi quần mặc trên người để sử dụng. Khoảng 12 giờ cùng ngày, Huỳnh Văn A điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave, biển kiểm soát: 60K7-0210 từ phòng trọ đến khu vực đoạn đường đất đỏ thuộc đường tổ 5, ấp 3, xã Minh Thắng tìm người tên Cường (không xác định nhân thân) để cùng sử dụng ma túy trái phép thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang, thu giữ vật chứng là 02 gói nylon trong túi quần của A, theo lời khai của A thì 02 gói nylon này là ma túy đá.

Tại bản kết luận giám định số: 258/2019/GĐ-MT, ngày 24 tháng 12 năm 2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận: Tinh thể trắng có trong 02 gói nylon (ký hiệu M) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methanphetamine, có khối lượng 0,7368 gam.

Vật chứng vụ án: 01 phong bì có dấu niêm phong của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước ; 01 điện thoại di động hiệu Sam sung 57 màu đen; 02 kéo cắt bằng kim loại màu trắng; 01 tấm phin chụp XQ và 01 xe mô tô hiệu Wave, biển kiểm soát: 60 k7 – 0210, số khung: 11020628, số máy: 0201128.

Tại bản Cáo trạng số: 34/CT – VKS – HS ngày 30 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước đã truy tố bị cáo Huỳnh Văn A về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Văn A khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn A phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Huỳnh Văn A từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù và đề nghị xử lý vật chứng qui định.

Tại phiên tòa bị cáo không tranh luận chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng một mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa: Lời khai của bị cáo A tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu,chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận: Huỳnh Văn A là đối tượng nghiện ma túy, A đã nhiều lần đến thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước mua ma túy về cất giấu trong phòng trọ tại ấp 3, xã Minh Lập, huyện Chơn Thành để sử dụng trái phép. Khoảng 12 giờ ngày ngày 19 tháng 12 năm 2019 A đang điều khiên xe mô tô nhãn hiệu Wave, biển kiểm soát: 60K7-0210 từ phòng trọ đến khu vực đoạn đường đất đỏ thuộc đường tổ 5, ấp 3, xã Minh Thắng tìm người tên Cường (không xác định nhân thân) để cùng sử dụng ma túy trái phép thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang và thu giữ vật chứng gồm 02 gói Nylon mà theo lời khai của A thì 02 gói nylon này là ma túy đá. Tại bản kết luận giám định số: 258/2019/GĐ-MT, ngày 24 tháng 12 năm 2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận: Tinh thể trắng có trong 02 gói nylon (ký hiệu M) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methanphetamine, có khối lượng 0,7368 gam. Hành vi của bị cáo A đủ các yếu tố cấu thành tội :“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Như vậy, VKSND huyện Chơn Thành truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ; điều luật qui định:

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a. … c. ….Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…..”

[3]. Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[3.2]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo , ăn năn hôi cải vê hành vi phạm tội của mình , bị cáo phạm tội lần đầu, có hoàn cảnh khó khăn. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xét hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo thấy: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mục đích tàng trữ ma tuý là để sử dụng cho bản thân, hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm phát sinh, lây lan các tệ nạn xã hội, hành vi đó là nguy hiểm, gây mất trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo biết rõ tác hại của ma tuý đối với con người và đời sống xã hội, song vẫn cố tình phạm tội, cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện và có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xét thấy bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp, chức vụ, thu nhập, ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4]. Về vật chứng: 01 phong bì có dấu niêm phong của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước chứa 0,7368 gam ma túy, loại Methanphetamine; 02 kéo cắt bằng kim loại màu trắng là dụng cụ bị cáo sử dụng làm công cụ sử dụng trái phép chất ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy.

01 điện thoại di động hiệu Sam sung 57 màu đen; 01 tấm phim chụp XQ và 01 xe mô tô hiệu Wave, biển kiểm soát: 60 k7 – 0210, số khung: 11020628, số máy: 0201128 không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[5]. Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

1. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn A 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 19/12/2019 đến ngày 24/12/2019.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì có dấu niêm phong của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước chứa 0,7368 gam ma túy, loại Methanphetamine; 02 kéo cắt bằng kim loại màu trắng.

Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Sam sung 57 màu đen; 01 tấm phim chụp XQ và 01 xe mô tô hiệu Wave, biển kiểm soát: 60 K7 – 0210, số khung: 11020628, số máy: 0201128.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Huỳnh Văn A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Huỳnh Văn A được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2020/HS-ST ngày 20/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chơn Thành - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về