Bản án 36/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 36/2019/HS-ST NGÀY 22/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 5 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 24/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2019; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2019/HSST-QĐ ngày 08 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

* Họ và tên: Đặng Thị Lệ H (tên gọi khác: không), sinh ngày 18 tháng 10 năm 1994 tại: Yên Sơn, Tuyên Quang; Nơi ĐKHKTT: Tổ 29, phường H, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đặng Trung K và bà Bùi Thị H; chồng, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố M, tỉnh Quảng Ninh; có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Anh Nguyễn Xuân C, Trần Minh Đ, Đỗ Nhân H, Trần Thị T; đều vắng mặt tại phiên tòa (anh Đ vắng mặt có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 01/01/2019, anh Nguyễn Xuân C thuê xe tắc xi BKS 20 A- 137- 86 do anh H điều khiển chở anh C, chị H và anh Đ ra thành phố M chơi. Khi đến địa bàn thành phố M, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 18 giờ ngày 02/01/2019 H một mình đi đến khu vực Bến xe khách M gặp và mua của một đối tượng (không rõ lý lịch) 02 túi ma tuý với giá 1.000.000 đồng, mục đích để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được ma túy, H cất giấu 01 túi vào trong quần lót H đang mặc và 01 túi H cho vào vỏ bao thuốc lá rồi cất giấu vào túi áo khoác của H đang mặc. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Khi trên đường quay về Thái Nguyên, đến Trạm kiểm soát liên hợp Km15 – Bến tàu D thuộc Thôn 6, xã H, thành phố M, thì bị Tổ công tác liên ngành kiểm tra. Thấy vậy, H lấy vỏ bao thuốc lá có gói ma túy từ trong túi áo khoác để ra ghế xe cạnh vị trí H ngồi. Qua kiểm tra, tổ công tác thu giữ các đồ vật, tài sản sau: thu giữ trên mặt ghế phía sau bên phải của xe ô tô BKS 20A – 137.86 01 bao thuốc lá bên trong có 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M1); thu giữ bên trong quần lót H đang mặc 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M3); thu giữ trong chiếc cặp màu đen để trong hốc để đồ hàng ghế sau 01 hộp nhựa bên trong có 01 túi nilon chứa chất bột màu trắng (ký hiệu M2). Ngoài ra, tổ công tác thu giữ của H 01 chiếc điện thoại di đng nhãn hiệu Iphone và 2.920.000đ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đặng Thị Lệ H khai nhận đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung vụ án nêu trên. Bị cáo khẳng định chiếc cặp màu đen để trong hốc để đồ hàng ghế sau của xe là của C, khi trả phòng nghỉ để ra về bị cáo là người cầm chiếc cặp đó từ phòng nghỉ xuống xe. Tuy nhiên, bị cáo không biết gói ma túy trong túi có nguồn gốc của ai, nguồn gốc ở đâu.

Quá trình điều tra, những người làm chứng có lời khai như sau:

- Anh Nguyễn Xuân C khai: 23 giờ ngày 01/01/2019, anh C thuê xe tắc xi BKS 20 A- 137- 86 do anh Hòa điều khiển chở anh C, chị H và anh Đ ra Móng Cái chơi. Khoảng 05 giờ ngày 02/01/2019 thì ra đến M, sau đó tất cả cùng thuê nhà nghỉ, Đ và H nghỉ 01 phòng, còn C cùng H nghỉ một phòng. Đến khoảng 21 giờ ngày 02/01/2019, H điều khiển xe chở tất cả về thành phố T. Vị trí ngồi trên xe cả hai chiều: C và H ngồi ghế sau, còn Đ ngồi ghế trên, cùng hàng với ghế lái. Khi xe đi đến trạm kiểm soát liên hợp Km 15 thì lực lượng chức năng yêu cầu kiểm tra. Qua kiểm tra lực lượng chức năng đã thu giữ đồ vật, tài sản như nội dung vụ án nêu trên. Ngoài ra không thu giữ được gì khác. Anh C khẳng định 02 gói ma túy thu giữ trên ghế, trong túi ở trên xe không phải của anh C. Chiếc cặp da màu đen là của anh C, khi lên nhà nghỉ anh C có cầm theo, nhưng khi đi chơi thì để ở phòng, còn khi trả phòng đi về thì H là người cầm túi của anh Công từ phòng xuống xe. Do đó, anh C không biết gói ma túy trong chiếc túi da màu đen là của ai, nguồn gốc từ đâu.

- Anh Trần Minh Đ và anh Đỗ Nhân H đều có lời khai về diễn biến sự việc, cơ quan chức năng thu giữ các đồ vật như lời khai của anh Công nêu trên. Họ đều khẳng định họ không liên quan đến số ma túy lực lượng chức năng thu giữ và không biết việc bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Chị Trần Thị T khai: Khoảng 22 giờ ngày 02/01/2019, tại Trạm kiểm soát liên hợp km 15 Bến tàu D, chị được chứng kiến lực lượng chức năng tiến hành kiểm tra, thu giữ tại quần lót chị Đặng Thị Lệ H đang mặc 01 túi nilon màu trắng bên trong đựng chất tinh thể màu trắng. Chị H khai đó là ma túy đá chị H mua để nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Tại Bản kết luận giám định số 168/GĐMT ngày 08 tháng 01 năm 2019, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật gửi giám định đều là ma túy, trong đó: Mẫu M1 là loại: Ketamine, khối lượng: 0,636g (không phẩy sáu ba sáu gam); Mẫu M2 là loại: Heroine, khối lượng: 0,052g (không phẩy không năm hai gam); Mẫu M3 là loại: Methamphetamine, khối lượng: 1,816g (một phẩy tám một sáu gam).

Tại bản cáo trạng số 31/CT-VKS-MC, ngày 01 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo Đặng Thị Lệ H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

* Trong phần tranh luận: Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Đặng Thị Lệ H 18 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt: ngày 02/01/2019.

- Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 0,57g ma túy, loại Ketamine và 1,75g ma túy, loại: Methamphetamine (mẫu vật hoàn lại sau giám định), là vật nhà nước cấm lưu hành, được niêm phong trong phong bì theo đúng quy định của pháp luật.

+Trả lại cho bị cáo: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng –hồng, lắp 01 sim cũ, đã qua sử dụng và số tiền 2.920.000.đ, không liên quan đến việc phạm tội.

Bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

*Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Móng Cái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về những chứng cứ xác định bị cáo có tội, về tính chất, mức độ hành vi phạm tội:

t lời nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với vật chứng thu giữ, Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 02/01/2019, tại Trạm kiểm soát liên hợp Km15 – Bến tàu D thuộc thôn 6, xã H, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh, Đặng Thị Lệ H có hành vi cất giấu trái phép 1,816g (một phẩy tám một sáu gam) ma túy, loại Methamphetamine và 0,636g(không phẩy sáu ba sáu gam) ma túy, loại: Ketamine, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Theo qui định tại Điều 4 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 thì việc bị cáo Đặng Thị Lệ H tàng trữ số ma túy trên thuộc trường hợp tàng trữ 02 chất ma túy được qui định trong cùng một điểm thuộc một khoản trong điều 249 của Bộ luật hình sự.

Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do lỗi cố ý, xâm phạm đến chế độ của Nhà nước về quản lý các chất ma túy.

Do đó, hành vi như nêu trên của bị cáo đã cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” qui định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng qui định của pháp luật Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này;"...

Bị cáo nhận thức rõ về tác hại của ma túy và qui định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, nhưng do lối sống buông thả, thiếu ý thức chấp hành pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo góp phần làm cho tệ nạn nghiện chất ma túy gia tăng, tiếp tay cho các loại tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống xã hội. Do đó, thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, mới có tác dụng giáo dục và phục vụ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự qui định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ. Tuy nhiên, xét bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 0,57g ma túy, loại: Ketamine và 1,75g ma túy, loại: Methamphetamine (mẫu vật hoàn lại sau giám định), là vật nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 chiếc điện thoại di động Iphone màu trắng hồng – bên trong lắp 01 sim cũ, đã qua sử dụng và số tiền 2.920.000đ, không liên quan đến việc phạm, cần trả lại cho bị cáo.

[5] Về lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát: Xét những chứng cứ mà Kiểm sát viên dùng để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo đã được cơ quan điều tra thu thập theo đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật tố tụng Hình sự quy định; Tại phiên tòa bị cáo cũng đã thừa nhận thực hiện hành vi như bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Nên lời buộc tội của Kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Liên quan trong vụ án:

- Người đàn ông đã bán trái phép chất ma túy cho bị cáo, nhưng quá trình điều tra không xác định được lý lịch của đối tượng, nên không có căn cứ để xử lý.

- Đối với số lượng ma túy 0,052g Heroine thu giữ trong chiếc cặp da màu đen để trên xe, quá trình điều tra chưa làm rõ được, Cơ quan điều tra tách ra, tiếp tục điều tra, xử lý sau, nên không xét.

- Đối với các anh Nguyễn Xuân C, Trần Minh Đ, Đỗ Nhân H cùng đi trên xe tắc xi với bị cáo, nhưng quá trình điều tra xác định họ không liên quan đến số ma túy lực lượng chức năng thu giữ và không biết việc bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy, nên không đề cập xử lý.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Về áp dụng pháp luật:

n cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; khoản 1, 4 Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

n cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

2. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Đặng Thị Lệ H (tên gọi khác: Không) Phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt: Đặng Thị Lệ Hằng 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt: ngày 02/01/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,57g (không phảy năm bảy gam) ma túy, loại: Ketamine và 1,75g (một phảy bảy năm gam) ma túy, loại: Methamphetamine (mẫu vật hoàn lại sau giám định) được niêm phong trong phong bì theo đúng quy định của pháp luật, còn nguyên vẹn, mặt trước ghi công an tỉnh Quảng Ninh – Phòng KTHS số 168/GĐMT.

- Trả lại bị cáo: 01 chiếc điện thoại di động Iphone màu trắng – hồng, bên trong lắp 01 sim, đã qua sử dụng và số tiền 2.920.000đ (Hai triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng).

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng số 34/2019/THA ngày 04/4/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh).

S 4. Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Đặng Thị Lệ H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về