Bản án 36/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN  36/2018/HS-ST NGÀY 27/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 37/2018/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2018/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Trần Xuân H, sinh năm 1977 tại phường V, thành phố Đ, tỉnh Nam Định.

Nơi cư trú: Số 5/1/125, đường C, phường V, thành phố Đ, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Xuân N và bà Trần Thị Đ; có vợ Nguyễn Thị Minh T và ba con; tiền án: Bản án số 20/2014/HSST ngày 21/01/2014 Toà án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Nam Định xử phạt 21 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bản án số 29/2016/HSST ngày 15/11/2016 Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Nam Định xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 21/HSST ngày 24/01/2003 Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đã được xoá án. Bản án số 213/HSST ngày 15/6/2009 Toà án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Nam Định xử phạt 15 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” đã được xoá án; bị bắt giam giữ từ ngày 12 tháng 8 năm 2018; có mặt.

- Bị hại: Anh Nông Quang M, sinh năm 1998;

Nơi cư trú: Thôn P, xã T, huyện L, tỉnh Nam Định; có mặt.

- Người làm chứng: Ông Nông Văn H; Anh Đặng Văn C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 11/8/2018 Trần Xuân H đi bộ một mình mang theo một bộ vam phá khoá xe máy tự chế, một bình xịt hơi cay với mục đích thấy ai sở hở thì trộm cắp xe máy. Khi đi đến Quốc lộ 10, H gặp một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) điều khiển xe mô tô (không rõ loại xe, biển số) chở H đi theo hướng cầu Tân Đệ để hoạt động trộm cắp. Khi đến khu vực thôn P, xã T, huyện L, tỉnh Nam Định phát hiện thấy trong sân nhà ông Nông Văn H, sinh năm 1953 có dựng một xe mô tô Honda Wave α biển kiểm soát (viết tắt BKS) 18B1- 986.59 không có cổng khoá và người trông coi. Lợi dụng sơ hở, H lén lút đột nhập vào dùng vam phá mở ổ khoá điện phóng xe tẩu thoát được khoảng 10 m thì bị ông H cùng con trai là Nông Quang M phát hiện truy bắt. Khi bị khống chế, H dùng bình xịt hơi cay xịt vào người ông H và anh M để tẩu thoát nhưng vẫn bị quần chúng nhân dân hỗ trợ bắt giữ đưa H cùng vật chứng về Công an xã T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Xuân H không thu giữ gì. Tại Cơ quan điều tra, H đã khai nhận toàn bộ hành vi thực hiện việc chiếm đoạt chiếc xe máy tại sân nhà ông Nông Văn H như đã nêu trên.

Bản kết luận số 19/ĐG-HĐĐG ngày 13/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự kết luận: Chiếc xe mô tô Honda Wave α màu trắng đã cũ BKS 18B1- 986.59 có giá trị 13.000.000 đồng.

Chiếc xe bị H chiếm đoạt được xác định là của anh Nông Quang M, anh M đã nhận lại chiếc xe của mình và không có yêu cầu đề nghị gì.

Bản cáo trạng số 37/CTr - KSĐT ngày 26/10/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định xác định bị cáo Trần Xuân H phạm tội thuộc trường hợp “Hành hung để tẩu thoát” và “Tái phạm nguy hiểm” nên truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo tình tiết định khung quy định tại điểm đ và g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Trần Xuân H thành khẩn khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố; xác nhận kết luận định giá về giá trị tài sản đã chiếm đoạt là đúng; Viện kiểm sát truy tố không oan nên không thắc mắc gì, xin nhận trách nhiệm về hành vi của bản thân gây ra. Bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không có yêu cầu bồi thường gì; đề nghị Hội đồng xét xử xử lý bị cáo nghiêm minh theo pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Xuân H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; căn cứ áp dụng điểm đ, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị  xử phạt bị cáo từ 36 đến 42 tháng tù. Bị cáo không bào chữa, tranh luận gì và có lời nói sau cùng xin chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của bản thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Lộc cũng như Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc cũng như Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo, bị hại cũng như những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy lời khai bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản và tài liệu khám nghiệm hiện trường; kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự; lời khai bị hại và người làm chứng cũng như toàn bộ lời khai bị cáo tại cơ quan điều tra. Từ các tình tiết chứng cứ này đã có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 20 giờ 40 phút, ngày 11/8/2018, tại nhà ông Nông Văn H ở thôn P, xã T, huyện L, tỉnh Nam Định. Lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản, Trần Xuân H đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt của anh Nông Quang M chiếc xe mô tô Honda Wave α BKS 18B1- 986.59 trị giá 13.000.000 đồng (mười ba triệu đồng); khi bị bắt quả tang, H đã sử dụng bình xịt hơi cay chống trả lại chủ sở hữu. Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Hành hung để tẩu thoát” và đã tái phạm lại phạm tội do cố ý thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” nên truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” với các tình tiết định khung tại điểm đ, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về dấu hiệu đồng phạm: Trong vụ án này có nổi lên đối tượng điều khiển xe máy chở H đi hoạt động trộm cắp tài sản. Theo lời khai của ông Nông Văn H và anh Nông Quang M, trong lúc khống chế bắt giữ H thì đối tượng điều khiển xe máy định giải cứu cho H nhưng thấy đông người liền phóng xe bỏ chạy về hướng Thái Bình. Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng chưa xác định được nên đã tách ra để xác minh, xửu lý sau là hoàn toàn đúng đắn.

[4] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo Trần Xuân H là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, là khách thể được pháp luật Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, hành vi đó không những gây bất bình, phẫn nộ trong quần chúng nhân dân mà còn ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, lịch sử nhân thân đã nhiều lần bị Toà án đưa ra xét xử và đã từng phải đi chấp hành án phạt tù về tội chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, bị cáo đã không lấy đó làm những bài học thức tỉnh để hoàn lương mà trái lại, với ý thức lười lao động nhưng lại muốn hưởng thụ trên thành quả lao động của người khác một cách trái pháp luật nên một lần nữa tiếp tục phạm tội. Điều đó chứng tỏ bị cáo thực sự là người khó cải tạo, luôn có tâm lý coi thường và thách thức pháp luật. Bị cáo cố ý phạm tội trong khi đã tái phạm chưa được xoá án tích, khi bị bắt quả tang còn hành hung xịt hơi cay chống trả bị hại. Hành vi đó là vi phạm pháp luật Nhà nước, trái với đạo đức xã hội, vì vậy bị cáo sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của mình.

[5] Về trách nhiệm hình sự: Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, khách thể được pháp luật Nhà nước bảo hộ bị xâm phạm, động cơ mục đích phạm tội của bị cáo, hậu quả nguy hại cho xã hội và lịch sử nhân thân của bị cáo thì việc cần thiết phải áp dụng biện pháp cách ly xã hội một thời gian dài để cải tạo giáo dục là thoả đáng; đồng thời cũng mới đáp ứng được yêu cầu răn đe, giáo dục phòng ngừa chung. Xét mức án Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là chưa tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, vì vậy Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc để ấn định một mức hình phạt tương xứng, đủ để cải tạo bị cáo thành người có ích. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét đến tình tiết bị cáo đã thành khẩn, nhận thức lỗi lầm, ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo có xác nhận của Chính quyền địa phương; mẹ bị cáo là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng huy chương, đó là những tình tiết được Hội đồng xét xử vận dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nông Quang M đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt là chiếc xe mô tô Honda Wave α BKS 18B1- 986.59 và không có yêu cầu đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với các vật dụng do Cơ quan điều tra thu giữ tại hiện trường gồm 01 bình xịt hơi cay; 01 cờ lê; 01 vật kim loại màu trắng dài 8 cm, một đầu nhọn, một đầu hình lục giác. Đây là những vật dụng được xác định là của bị cáo dùng làm công cụ phạm tội nên cần phải bị tịch thu để tiêu huỷ.

Chiếc điện thoại kim loại cũ có dòng chữ “VTRETU” và số tiền 50.000 đồng đã thu giữ được xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội nên được trả lại cho bị cáo nhưng cần thiết phải bảo thủ để đảm bảo cho việc thi hành án về án phí.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điểm đ, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Trần Xuân H phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Xử phạt bị cáo H 48 (bốn mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ, ngày 12 tháng 8 năm 2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu huỷ 01 bình xịt hơi cay; 01 cờ lê, 01 vật kim loại màu trắng dài 8 cm, một đầu nhọn, một đầu hình lục giác theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 29 tháng 10 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.

Trả lại bị cáo Trần Xuân H 01 điện thoại kim loại cũ có dòng chữ “VTRETU” theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 29 tháng 10 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định cùng với số tiền 50.000 đồng theo giấy nộp tiền vào tài khoản số 01 lập ngày 14 tháng 8 năm 2018 giữa Công an và Kho bạc Nhà nước huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định nhưng bảo thủ để đảm bảo thi hành án.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

3. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:36/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Lộc - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về