Bản án 357/2018/HS-ST ngày 12/10/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 357/2018/HS-ST NGÀY 12/10/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 10 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 516/2018/HSST, ngày 10/9/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 4159/2018/QĐXXST-HS, ngày 14/9/2018 đối với các bị cáo:

1. Trịnh Hoàng Q; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1986 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 730/2/16 Lạc Long Quân, Phường A, quận B, Thành phố C; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trịnh Quang M và bà Lê Thị Kim C; Hoàn cảnh gia đình: có vợ là bà Quỳnh Thị Hồng T và 01 con (sinh năm 2012); Tiền sự: Không;

Tiền án:

+ Ngày 18/01/2014, Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm 6 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số: 07/2014/HSST.

Nhân thân:

+ Ngày 10/3/2006, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 6 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số: 246/2006/HSST.

+ Ngày 17/6/2008, Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 6 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số: 94/2008/HSST.

Bị tạm giữ, tạm giam ngày: 12/12/2017- Có mặt.

2. Ngô Quang T (tên gọi khác: N); Giới tính: Nam; Sinh năm: 1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 135/6 Lạc Long Quân, Phường A, quận B, Thành phố C; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn M và bà Ngô Thị H; Hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; Tiền sự, tiền án: Không;

Bị tạm giữ, tạm giam ngày: 09/01/2018 - Có mặt.

Những người tham gia tố tụng khác:

- Bị hại:

Bà Tăng Bích P Sinh năm: 1982 Quốc tịch: Mỹ

Tạm trú: phòng 101, khách sạn Đông Hà, số 328 Hòa Hảo, Quận Q, Thành phố w - vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 04 giờ 23 phút, ngày 20/11/2017, chị Tăng Bích P (sinh năm 1982; Quốc tịch Mỹ) từ quán bar số 84 Hùng Vương, Phường 9, Quận 5 ra về và đứng trên vỉa hè trước quán bar đợi bạn, trên tay có cầm điện thoại di động (ĐTDĐ) hiệu Iphone 6s Plus. Lúc này, Trịnh Hoàng Q điều khiển xe gán máy hiệu Exciter, biển số 59V1-986.05 chở Ngô Quang T đến giao lộ Sư Vạn Hạnh - Hùng Vương thì T ngồi sau nhìn thấy chị P liền chỉ cho Q biết. Lúc này, Q điều khiển xe chở T quay lại chạy lên vỉa hè đường Hùng Vương theo hướng cùng chiều các phương tiện lưu thông trên đường và chạy ngang áp sát trước mặt chị P để cho T ngồi sau dùng tay phải giật chiếc ĐTDĐ trên tay của chị P rồi nhanh chóng tẩu thoát. Khi Q điều khiển xe chở T bỏ chạy được một đoạn thì bị anh Trần Hoàng N chứng kiến sự việc liền đạp ngã xe và giằng co bắt giữ Q, T nhưng Q, T vùng ra được, chạy bộ trốn thoát bỏ lại xe gắn máy biển số 59V1-986.05, điện thoại hiệu Iphone 6s Plus của chị P và điện thoại hiệu Xaomi của Q tại hiện trường. Sau đó, anh N và chị P đã đến Công an Phường 9, Quận 5 trình báo sự việc và giao nộp tang vật cùng phương tiện phạm tội.

Ngày 20/11/2017, Công an Phường 9, Quận 5 đã lập biên bản trao trả tài sản bị cướp giật là chiếc điện thoại hiệu Iphone 6s Plus cho chị Tăng Bích p. Đến ngày 24/12/2017, chị Tăng Bích P đã xuất cảnh về nước.

Qua rà soát tại trước số 84 Hùng Vương, Phường 9, Quận 5, Cơ quan điêu tra có thu giữ đoạn camera ghi nhận hình ảnh Q và T cướp giật tài sản của chị Tăng Bích P vào khoảng 04 giờ 23 phút, ngày 20/11/2017.

Qua truy xét, ngày 10/12/2017 Cơ quan điều tra đã bắt được Trịnh Hoàng Q. Ngày 09/01/2018, Cơ quan điều tra bắt được Ngô Quang T.

Tại Cơ quan điều tra, Trịnh Hoàng Q và Ngô Quang T đã khai nhận hành vi phạm tội và đã chỉ đứng địa điểm nơi gây án.

* Tại bản kết quả định giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 1474/STC-HĐĐGTS-BVG ngày 14/03/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “ĐTDĐ hiệu Iphone 6s Plus, màu xám đen, dung lượng 64G, đã qua sử dụng, vào thời điểm ngày 20/11/2017 trị giá 8.043.000 đồng”.

Vật chứng của vụ án:

Thu giữ của bị cáo Trịnh Hoàng Q:

- 01 (một) xe gán máy hiệu Exciter, biển số 59V1-986.05.

- 01 (một) ĐTDĐ hiệu Xaomi, màu trắng, bị vỡ màn hình.

Thu giữ của bị cáo Ngô Quang T:

- 01 (một) ĐTDĐ hiệu Asus, màu xanh đen.

Anh Lê Minh Hùng giao nộp:

- 01 (một) đĩa CD chứa nội dung hình ảnh camera trước địa chỉ 84 Hùng Vương, Phường 9, Quận 5.

Phần dân sự:

Bà Tăng Bích P đã nhận lại toàn bộ tài sản bị cướp giật và không có yêu cầu gì khác.

Bản cáo trạng số: 179/CT-VKS-P2, ngày 02/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

- Bị cáo Trịnh Hoàng Q về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm c, d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

- Bị cáo Ngô Quang T về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa,

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích, đánh giá, tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, nêu lên những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trịnh Hoàng Q và bị cáo Ngô Quang T phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

- Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 136 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trịnh Hoàng Q từ 04 (bốn) năm 6 (sáu) tháng tù đến 05 (năm) 6 (sáu) tháng tù.

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Ngô Quang T từ 03 (ba) năm tù đến 04 (bốn) năm tù.

Về dân sự:

Bà Tăng Bích P đã nhận lại toàn bộ tài sản bị cướp giật và không có yêu cầu gì khác nên đại diện Viện kiểm sát không đề nghị gì thêm.

Về vật chứng:

Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không tự bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trịnh Hoàng Q và bị cáo Ngô Quang T khai nhận về hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra đứng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố. Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và vụ án còn được chứng minh bằng các tài liệu, vật chứng thu giữ và chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, lời khai người bị hại, lời khai người làm chứng, biên bản tiếp nhận tố giác tội phạm. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 04 giờ 23 phút, ngày 20/11/2017, Trịnh Hoàng Q điều khiển xe gắn máy chở Ngô Quang T ngồi sau để Trường dùng tay phải giật chiếc điện thoại di động của bà Tăng Bích P đang đứng trên vỉa hè rồi nhanh chóng tẩu thoát. Như vậy, hành vi của bị cáo Q và bị cáo T đã phạm tội: “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 136 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay đều xác định bị cáo Trịnh Hoàng Q và bị cáo Ngô Quang T sử dụng xe gắn máy đang tham gia lưu thông trên đường để thực hiện hành vi phạm tội là “dùng thủ đoạn nguy hiểm". Vì vậy, cần phải áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136 của Bộ luật hình sự xử phạt các bị cáo. Riêng bị cáo Q đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng do cố ý chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”. Vì vậy, đối với bị cáo Q cần phải áp dụng thêm điểm c khoản 2 Điều 136 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Q.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ đó là tài sản của công dân gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của người Việt Nam trong mắt những người nước ngoài, gây mất trật tự trị an xã hội, tạo tâm lý hoang mang, lo sợ cho mọi người trong việc quản lý tài sản. Vì vậy, để giữ gìn kỷ cương pháp luật, để bảo vệ tài sản của mọi người, để củng cố niềm tin của nhân dân, cần phải xử các bị cáo mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra nhằm mục đích giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa cho toàn xã hội.

Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại. Do đó, các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, P khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Về trách nhiệm dân sự:

Bà Tăng Bích P đã nhận lại toàn bộ tài sản bị cướp giật và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 (một) gói niêm phong có chữ ký, chữ viết họ tên Trịnh Hoàng Q, Ngô Quang T và hình dấu Cơ quan CSĐT Công an Thành phố Hồ Chí Minh, bên trong là 01 (một) đĩa CD Maxel 700MB không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Xaomi, màu trắng, bị vỡ màn hình thu giữ của bị cáo Trịnh Hoàng Q và 01 (một) điện thoại di động hiệu Asus, màu xanh đen thu giữ của bị cáo Ngô Quang T không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên Hội đồng xét xử trả lại cho các bị cáo.

- Đối với 01 (một) xe môtô hiệu Exciter, biển số 59V 1-986.05, có số khung, số máy nguyên thủy. Xác minh tại Phòng PC67 - CATP được biết: xe môtô này do anh Trần Lê Hoàng D (địa chỉ: 53/9/1/3 Lương Ngọc Quyến, Phường H, quận L) đứng tên chủ sở hữu. Ngày 07/9/2017, anh D đã bán cho anh Dương Khánh Đ (địa chỉ: 16/2 Trung Lân, xã Y, huyện Z) theo hợp đồng ủy quyền được Văn phòng Công chứng Lê Thị Phương Liên công chứng số 013644 ngày 07/9/2017. Qua ghi lời khai, anh Đ trình bày: chiếc xe môtô trên anh Đ mua lại của anh D và đã được Văn phòng Công chứng Lê Thị Phương Liên công chứng nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 11/10/2017, anh Đ đã bán xe này bằng giấy tay cho bị cáo Q với giá 25.500.000 đồng. Tiến hành cho anh Đ nhận dạng đúng Q là người đã mua chiếc xe này. Bị cáo Q khai: xe môtô trên do Q mua lại bằng giấy tay của anh Đ nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 20/11/2017, bị cáo Q sử dụng chiếc xe này chở bị cáo T thực hiện hành vi cướp giật tài sản như đã nêu trên nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

Bị cáo Trịnh Hoàng Q và bị cáo Ngô Quang T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

- Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 136; điểm g, P khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Xử phạt: Trịnh Hoàng Q 04 (bốn) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày: 12/12/2017.

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm g, P khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Xử phạt: Ngô Quang T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày: 09/01/2018.

- Áp dụng Điều 47; Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) đĩa CD Maxel 700MB.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:

+ 01 (một) xe hai bánh gắn máy; nhãn hiệu: Yamaha; loại xe: 02 bánh; số loại: Exciter; biển số: 59V1-986.05; số khung: RLCE1S9A0DY-054141 (ghi theo số cà); số máy: 1S9A-054158 (ghi theo số cà).

Trả lại cho:

+ Bị cáo Trịnh Hoàng Q 01 (một) điện thoại di động hiệu Xaomi, màu trắng (bị vỡ màn hình).

+ Bị cáo Ngô Quang T01 (một) điện thoại di động hiệu Asus, màu xanh đen, số Imei 1: 357886086091130, số Imei 2: 357886086091148 (bị bể góc màn hình phía dưới, thực nhận 01 điện thoại Asus, màu xanh đen không kiểm tra được số imei do không có nguồn điện).

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số: 270/18 ngày 27 tháng 6 năm 2018 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

- Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 357/2018/HS-ST ngày 12/10/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:357/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về