TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 353/2020/HS-ST NGÀY 03/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 03 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 293/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 372/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2020, đối với các bị cáo:
1. Phí Hoàng S, sinh năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: khu phố 3, phường L, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Sửa xe; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn C, sinh năm 1959 (đã chết) và bà Phí Thị Thu V, sinh năm 1964; có 01 chị ruột, sinh năm: 1986; có vợ Nguyễn Thị Kiều Y, sinh năm 1991, có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:
+ Ngày 26/5/2009, bị Tòa án nhân dân huyện D (nay là thành phố D), tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm tù về tội Cướp giật tài sản (Bản án số 144/2009/HSST).
+ Ngày 20/7/2011 bị Tòa án nhân dân Quận T, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội Cướp giật tài sản (Bản án số 163/2011/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/10/2014.
+ Ngày 28/1 0/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã D (nay là thành phố D) ra Quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh (Quyết định số 188/2016/QĐ-TA). Chấp hành xong ngày 08/02/2018.
+ Ngày 17/7/2019, bị Ủy ban nhân dân phường 7, Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định đưa người nghiện ma túy vào Cơ sở xã hội Nhị Xuân để quản lý cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đến ngày 01/10/2019 ra Quyết định hủy Quyết định đưa người nghiện ma túy vào Cơ sở xã hội Nhị Xuân để quản lý cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Bị bắt tạm giam ngày 02/4/2020, có đơn yêu cầu xét xử vắng.
2. Trần Chí T, sinh năm 1999, tại tỉnh Bình Dương; thường trú: khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không biết chữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1979 và bà Trần Thị Bé T, sinh năm 1983; có 01 anh ruột, sinh năm: 1991; tiền án: Không; bị bắt tạm giam ngày 02/4/2020, có đơn yêu cầu xét xử vắng.
- Người làm chứng:
1. Nguyễn Đức A; vắng mặt.
2. Lê Yến N; vắng mặt.
3. Nguyễn Đức Q; vắng mặt.
4. Lê Văn B; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ ngày 02/4/2020, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an thành phố D phối hợp với Công an phường T, thành phố D tuần tra trên địa bàn phường T. Khi tổ tuần tra đi đến trước nhà nghỉ A, đường D1, khu phố Đ, phường T, thành phố D, phát hiện Phí Hoàng S và Trần Chí T đang điều khiển xe mô tô biển số 59X1-90696 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra, phát hiện trên tay T có 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (M1), T khai nhận là ma túy đá; tiếp tục kiểm tra phát hiện trong túi quần phía sau bên trái của S đang mặc có 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (M2), S khai nhận là ma túy đá nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng.
S khai nhận số ma túy đá thu giữ, S mua vào khoảng 08 giờ ngày 02/4/2020 của người đàn ông tên G (không rõ nhân thân, lai lịch) với giá 500.000 đồng tại đầu đường Hiệp Bình Phước, phường H, Quận T, thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, S lấy gói nylon ma túy bỏ vào túi quần phía sau bên trái rồi điều khiển xe đi. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, S về nhà của Tr chơi và rủ T đến sử dụng ma túy. S và T ra khỏi nhà Tr thì T nói S đứng chờ để T đi công việc. T đi vào đường hẻm khoảng 05 phút, quay lại chỗ S và cả hai cùng đi tìm chỗ sử dụng ma túy. Lúc này S mới biết T có cầm gói nylon ma túy trên tay trái.
T khai nhận: Khoảng 16 giờ ngày 02/4/2020 T đến nhà Tr, gặp người bạn của Tr tên Tý (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua 200.000 đồng ma túy, Tý hẹn giao ma túy ở đường hẻm gần nhà Tr. T rủ S đi sử dụng ma túy. Do đã hẹn mua ma túy nên T nhờ S điều khiển xe mô tô biển số 59X1-90696 chở T đi đến đầu đường hẻm thuộc khu vực Bọng Dầu, phường Linh Xuân, Quân Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, S dừng xe lại đứng chờ, còn T đi vào trong mua ma túy đá. Sau khi giao dịch xong thì T cầm gói nylon ma túy trên tay trái và cùng đi tìm chỗ sử dụng ma túy. Khi đi đến trước nhà nghỉ A thì bị lực lượng tuần tra phát hiện bắt giữ. Lúc này T mới biết S có giấu 01 gói nylon ma túy trong túi quần phía sau bên trái.
Tại Kết luận giám định số 194/MT-PC09 ngày 10/4/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương: mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định đều là ma túy, có khối lượng 1,5125 gam (M1), 0,2516 gam (M2) loại Methamphetamine.
Đối với xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu đỏ đen, biển số 59X1-906.96, số khung MH1KB1117JK149585, số máy KB11E1149586, do bà Lê Thị Khiết N, sinh năm 1996 đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Bà N cho ông Lê Kế T, mượn đi công việc. Sau đó ông T cho Phí Hoàng S mượn. Nên đã trả xe cho bà N là có căn cứ.
Tại cáo trạng số 326/CT-VKS-DA ngày 13 tháng 7 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Phí Hoàng S và Trần Chí T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt các bị cáo Phí Hoàng S mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; và Trần Chí T mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.
Về xử lý vật chứng, đề nghị:
Đối với 01 gói nylon chứa ma túy được đựng trong bì thư niêm phong ghi số vụ 194/MT-PC09 (1,2310 gam (M1), 0,1882 gam (M2) ma túy, loại Methamphetamine) là mẫu vật hoàn lại sau giám định, cần tịch thu, tiêu hủy.
Đối với đối tượng bán ma túy cho S và T, do chưa xác định được lai lịch, địa chỉ khi nào xác minh được sẽ tiến hành xử lý sau. Tại đơn yên cầu giải quyết vắng mặt các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Tại cơ quan điều tra người chứng kiến không có ý kiến gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Nội dung vụ án: Khoảng từ 08 giờ đến 16 ngày 02/4/2020, Phí Hoàng S và Trần Chí T có hành vi mua ma túy về sử dụng và bị kiểm tra tại khu vực nhà nghỉ A, đường D1, khu phố Đ, phường T, thành phố D thu giữ ma túy đối với các bị cáo. Như vậy, hành vi của các bị cáo Phí Hoàng S tàng trữ số lượng 1,5125 gam (ký hiệu M1) ma túy là chất methamphetamin và Trần Chí T tàng trữ số lượng 0,2516 gam (ký hiệu M2) ma túy là chất methamphetamin đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng 326/CT-VKS-DA ngày 13 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về nhân thân: Các bị cáo nhân xấu, nghiện ma túy. Đối với Phí Hoàng S:
+ Ngày 26/5/2009, bị Tòa án nhân dân thành phố D (huyện D), tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm tù về tội Cướp giật tài sản (Bản án số 144/2009/HSST).
+ Ngày 20/7/2011 bị Tòa án nhân dân Quận T, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội Cướp giật tài sản (Bản án số 163/2011/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/10/2014.
+ Ngày 28/1 0/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố D (thị xã D) ra Quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh (Quyết định số 188/2016/QĐ-TA). Chấp hành xong ngày 08/02/2018.
+ Ngày 17/7/2019, bị Ủy ban nhân dân phường 7, Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định đưa người nghiện ma túy vào Cơ sở xã hội Nhị Xuân để quản lý cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đến ngày 01/10/2019 ra Quyết định hủy Quyết định đưa người nghiện ma túy vào Cơ sở xã hội Nhị Xuân để quản lý cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
[7] Xử lý vật chứng: Xét 01 gói nylon chứa ma túy được đựng trong bì thư niêm phong ghi số vụ 194/MT-PC09 (1,2310 gam (M1), 0,1882 gam (M2) ma túy, loại Methamphetamine) là mẫu vật hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiên hủy;
[8] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành; nên không xem là đồng phạm có tổ chức.
[9] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[10] Đối với đối tượng bán ma túy cho S và T, do chưa xác định được lai lịch, địa chỉ khi nào xác minh được sẽ tiến hành xử lý sau.
[11] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Phí Hoàng S và Trần Chí T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Phí Hoàng S 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/4/2020.
- Xử phạt bị cáo Trần Chí T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/4/2020. 2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy 01 gói nylon chứa ma túy được đựng trong bì thư niêm phong ghi số vụ 194/MT-PC09 (1,2310 gam (M1), 0,1882 gam (M2) ma túy, loại Methamphentamine.
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Phí Hoàng S và Trần Chí T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.
Bản án 353/2020/HS-ST ngày 03/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 353/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về