Bản án 35/2019/HS-ST ngày 12/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 35/2019/HS-ST NGÀY 12/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 40/2019/TLST - HS ngày  21 tháng 03 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 03 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Hữu A, sinh năm 1988 tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn M, xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn S, sinh năm 1950 và bà Phạm Thị T, sinh năm 1962; vợ: Lê Thị T, sinh năm 1990; con: chưa có; tiền án: Ngày 21/10/2008, tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 25/6/2010, Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 01 năm tù về tội“Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt buộc Trần Hữu An phải chấp hành là 08 năm tù; tiền sự: Không; tạm giữ từ ngày 08/12/2018 đến ngày 14/12/2018 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Lê Thị T, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn M, xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người làm chứng: Ông Lại Văn D, sinh năm 1961; địa chỉ: tổ dân phố M, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 08/12/2018, trong lúc A ăn sáng tại thị trấn Quế, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam thì bạn nghiện tên Q ở xã K, huyện K, tỉnh Hà Nam gọi điệnvào máy điện thoại di động của A và hỏi vay A 40.000đ (A hiểu ý Q rủ An góp tiềnđể mua ma túy sử dụng). A hỏi Q ở đâu tí A qua đưa. Q hẹn A xuống cầu Phủ Lý đón Q. A đồng ý rồi điều khiển xe mô tô BKS 35B2 – 440.00 đến cầu Phủ Lý để gặp Q. Khi gặp Q, A bảo tiện xe cho anh sang bên này, A điều khiển xe chở Q đến khu vực Sở giao thông vận tải tỉnh Hà Nam thuộc tổ dân phố Hồng Phú, phường Thanh châu, thành phố Phủ Lý thì dừng xe lại, A đưa Q số tiền 40.000đ, Q cầm tiền rồi bảo A đứng chờ. Một lúc sau, Q quay lại đưa cho A 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng và nói “Anh chơi rồi em cầm bao thuốc lá về đi”, A biết bên trong bao thuốc lá có ma túy nên cầm ở tay trái và định đi tìm chỗ để sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Liêm Chính nghi vấn, phát hiện yêu cầu kiểm tra. Lúc này, A thả từ lòng bàn tay trái xuống đất 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng. Lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bên trong vỏ bao thuốc lá có 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục. Tại chỗ A khai nhận đó là gói ma túy cất giữ để sử dụng. Lực lượng Công an đưa A về trụ sở và tiến hành lập biên bản theo quy định của pháp luật.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 xe mô tô BKS 35B2 0 440.00; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màn hình cảm ứng, vỏ màu đen; 01 ví giả da màu đen đã cũ; 01 giấy phép lái xe mang tên Trần Hữu A; 01 căn cước công dân mang tên Trần Hữu A.

Ngày 10/12/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp số 23 đối với nơi ở, đồ vật, tài sản của Trần Hữu A tại Thôn M, xã n, huyện K, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số 200/PC09 – MT ngày 12/12/20118 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 là ma túy, khối lượng 0,271g, loại heroine.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 19/2019 ngày 27/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý kết luận: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, loại xe Vision, màu đen BKS 35 B2 – 440.00, xe đã qua sử dụng giá còn 18.000.000đ.

Tại bản cáo trạng số 44/CT-VKS-PL ngày 20/03/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Trần Hữu A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự).

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đề xuất Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Hữu A từ 30 đến 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về xử lý vật chứng:

Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ký hiệu QT01; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màn hình cảm ứng, vỏ màu đen; Trả lại chị Lê Thị T 01 xe mô tô BKS 35B2 - 440.00; Trả lại Trần Hữu A 01 ví giả da màu đen đã cũ; 01 giấy phép lái xe và 01 căn cước công dân đều mang tên Trần Hữu A.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Chị Lê Thị T đề nghị xe của chị mua là tài sản của chị và bố mẹ đẻ cho chị đứng tên. Khi A sử dụng xe chị không biết A dùng vào việc phạm tội. Chị đề nghị Hội đồng xét xử cho chị xin lại chiếc xe để làm phương tiện đi lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Việc Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng là tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[2] Đánh giá về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Trần Hữu A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, kết luận giám định của Cơ quan chuyên môn và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 8 giờ 50 phút ngày 08/12/2018, tại tổ dân phố Hồng Phú, phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Trần Hữu A đang cất giấu trái phép khối lượng 0,271g ma túy, loại hêrôine, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường Liêm Chính phát hiện bắt quảtang. Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tộiphạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[3] Đánh giá về hình phạt:

* Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội, là nguyên nhân dẫn đến gia tăng các tệ nạn xã hội tạo cơ hội cho các phần tử xấu buôn bán trái phép ma túy gây nhiều hệ lụy xấu trong cộng đồng, làm diễn biến tình hình tội phạm và tệ nạn về ma túy thêm phức tạp, gây bất bình sâu sắc trong quần chúng nhân dân.

Khi lượng hình cũng cần cân nhắc đến các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo để áp dụng hình phạt cho phù hợp.

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị phạt tù về hành vi mua bán trái phép chất ma túy và trộm cắp tài sản nay lại tiếp tục phạm tội.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có bố để tham gia kháng chiến được tặng thưởng huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhì nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Về tình tiết tăng nặng: Năm 2008 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý xử phạt 18 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; khi chưa được xóa án tích, năm 2010 bị cáo trộm cắp tài sản chỉ có trị giá 10.000đ nhưng đã bị Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng xét xử về tội trộm cắp tài sản và xử phạt là 01 năm tù đồng thời tổng hợp hình phạt với bản án xét xử 07 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy của Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng. Đến nay chưa được xóa án tích, bị cáo lại tiếp tục phạm tội nghiêm trọng với lỗi cố ý, do đó bị cáo Trần Hữu A phải chịu một tình tiết tăng nặng là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định tương xứng với hành vi phạm tội để cải tạo chính bị cáo và phòng ngừa chung trong cộng đồng.

* Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo phạm tội nhằm mục đích sử dụng, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Các tình tiết khác của vụ án.

Đối với người đàn ông bị cáo khai tên Q đã mua ma túy cho A. Quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch của người này nên chưa đủ căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[5] Về xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với toàn bộ số ma túy thu giữ của Trần Hữu A hoàn trả sau giám định, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối 01 xe mô tô BKS 35B2 - 440.00. Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định: Sau khi kết hôn với Trần Hữu A bốn ngày thì chị T đã mua xe và đứng tên chủ sở hữu, A là người mượn không có tài sản đóng góp với chị T khi mua xe. A lấy xe làm phương tiện phạm tội nhưng chị T không biết nên cần trả lại xe cho chị T là có căn cứ pháp luật.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màn hình cảm ứng, vỏ màu đen là tài sản, phương tiện An sử dụng vào việc liên lạc đi mua ma túy nên cần phải tịch thu sung nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 01 ví giả da màu đen đã cũ; 01 giấy phép lái xe và 01 căn cước công dân đều mang tên Trần Hữu A là tài sản hợp pháp của Trần Hữu A không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho A là phù hợp pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106; 136; 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Luật phí và lệ phí 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí

Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Trần Hữu A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Trần Hữu An 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/12/2018.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì ký hiệu QT01; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệuSamsung màn hình cảm ứng, vỏ màu đen.

Trả lại cho bị cáo Trần Hữu A: 01 ví giả da màu đen đã cũ; 01 giấy phép lái xe và 01 căn cước công dân đều mang tên Trần Hữu A.

Trả lại chị Lê Thị T: 01 xe mô tô BKS 35B2 - 440.00;

(Vật chứng có đặc điểm, tình trạng được ghi trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục thi hànhán dân sự thành phố Phủ Lý ngày 21/03/2019).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Hữu A phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HS-ST ngày 12/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:35/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về