Bản án 201/2017/HSST ngày 19/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 201/2017/HSST NGÀY 19/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19/9/2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 203/2017/HSST ngày 31 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Thào A T - Sinh năm 1982;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản T, xã L, huyện M, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: trồng trọt; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Đảng phái, đoàn thể: Không. Con ông: Thào A H– Sinh năm 1957, con bà Hờ Thị N – Sinh năm 1957. Bị cáo có vợ là Sồng Thị D – Sinh năm 1982. Bị cáo có 04 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2012.

Tiền án: Ngày 16/6/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tiền sự: Không, bị cáo hiện đang bị tạm giữ, giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Mộc Châu từ ngày 05/6/2017 đến nay, có mặt tại phiên toà.

NHẬN THẤY

Bị cáo Thào A T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồi 10 giờ 45 phút ngày 05/6/2017, tổ công tác Công an huyện Mộc Châu phối hợp với phòng PC 47 Công an tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại tiểu khu Pa Khen 1, thị trấn Nông Trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu phát hiện Thào A T đang đi bộ trên đường nghi có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra hành chính về ma túy, T tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói nilon màu vàng bên trong đựng 03 gói nilon màu trắng, bên trong các gói đều đựng cục bột màu trắng nghi là hê rô in, đồng thời T khai nhận đó là hê rô in của T mua về để sử dụng. Căn cứ vào hành vi vi phạm và vật chứng thu giữ, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải T bàn giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu điều tra, làm rõ.

Ngày 05/6/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và Phòng PC54 - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định trọng lượng số ma túy thu giữ của Thào A T có trọng lượng 0,41 gam. Lấy 0,13 gam làm mẫu gửi giám định, xác định có phải ma túy không, thuộc loại chất ma túy gì, trọng lượng (khối lượng) của mẫu gửi giám định là bao nhiêu, mẫu ký hiệu “T”.

Tại kết luận giám định số 614/KLMT ngày 08/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận “ Mẫu gửi giám định ký hiệu T là chất ma túy; Loại chất Hê rô in; trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,13 gam. Trọng lượng chất ma túy thu giữ được 0,41 gam, loại chất Hê rô in”.

Quá trình điều tra, Thào A T khai nhận: Thào A T là đối tượng nghiện hút chất ma túy. Khoảng 23 giờ ngày 04/6/2017, T đi nhờ xe máy của một người không quen biết từ nhà ở của T đến tiểu khu Pa Khen 1, thị trấn Nông Trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu mục đích tìm mua ma túy sử dụng, khi đi T mang theo số tiền 150.000đ. Đến nơi, T xuống xe và một mình đi bộ vào trong Tiểu khu Pa Khèn 1, thị trấn Nông Trường Mộc Châu thì gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết, qua trao đổi T đã mua được của người phụ nữ đó 03 gói hê rô in với giá 150.000đ, T cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc rồi đi vào nhà một người dân tộc Mông không quen biết để ngủ nhờ. Đến 10 giờ 45 phút, ngày 05/6/2017, T đi bộ về nhà, trên đường đi thì bị tổ công tác kiểm tra phát hiện, bắt quả tang.

Tại bản cáo trạng số: 166/CT-VKS ngày 30/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã truy tố bị cáo với nội dung: Truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Mộc Châu để xét xử đối với bị can Thào A T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã phát biểu ý kiến, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Thào A T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và áp dụng các căn cứ pháp luật để xử phạt đối với bị cáo như sau:

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa 14. Khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Thào A T từ 21 tháng đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án đề nghị: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 76 BLTTHS. Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,28 gam Hê rô in và vỏ gói niêm phong ban đầu.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo;

XÉT THẤY

Tại phiên toà, bị cáo giữ nguyên lời khai của mình như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét đã có đủ căn cứ kết luận. Ngày 05/6/2017 Thào A T đã có hành vi cất giấu trái phép 0,41 gam hê rô in mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS có mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 quy định người nào tàng trữ trái phép từ 0,1 gam đến dưới 05 gam Hê rô in thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy có mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm. Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa 14 thì cần áp dụng các điều khoản của BLHS năm 2015 để quyết định hình phạt theo hướng có lợi cho bị cáo. Vì vậy bị cáo Thào A T chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử đã đánh giá các tình tiết, nội dung vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, việc xử lý vật chứng trong vụ án. HĐXX nhận định đánh giá như sau:

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.

Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng, bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện hút chất ma túy.

Xét về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã có 01 tiền án: Ngày 16/6/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999. Do đó đối với bị cáo cần phải có một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo cũng cần xem xét, sau khi phạm tội bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó cần áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng, bị cáo là đối tượng nghiện hút chất ma túy, gia đình bị cáo không có tài sản có giá trị, do đó cần xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo (như bị cáo khai), do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, do đó không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 phong bì bên trong đựng 0,28 gam Hê rô in và vỏ gói niêm phong ban đầu là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo phải chịu án phí HS - ST theo quy định của pháp luật.

Xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Thào A T đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999; điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa 14. Khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015. Xử phạt bị cáo Thào A T 24 (Hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 05/6/2017. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,28 gam Hê rô in và vỏ gói niêm phong ban đầu.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 201/2017/HSST ngày 19/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:201/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về