Bản án 346/2018/HNGĐ-ST ngày 24/09/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA-TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 346/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 24 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP B có mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 1448/2018/TLST–HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2018 về tranh chấp “Xin lyhôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 341/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số 610/2018/QĐST- HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2018

Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Ph, sinh năm 1996.

Địa chỉ: Tổ 8, KP. 4, P Tr, Tp. B, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc D, sinh năm 1995

Địa chỉ: Tổ 20, Kp. 2, P. Tr, TP. B, T. Đồng Nai.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Cao Quang T, sinh năm: 1986.

Luật sư thuộc đoàn luật sư tỉnh Bình Dương. (Chị Ph, anh D, ông T có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện ngày 29/5/2018, các lời khai tại hồ sơ và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Vũ Thị Ph trình bày:

Chị và anh Nguyễn Ngọc D kết hôn với nhau vào năm 2015, hôn nhân tự nguyện có làm thủ tục đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường Tr, Tp. B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng thời gian về sau thì thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính cách của hai vợchồng không hòa hợp nên thường xuyên xảy ra tranh cãi. Vợ chồng và bố mẹ hai bên đã nhiều lần tạo điều kiện hòa giải đoàn tụ, nhưng kết quả không thành. Do mâu thuẫn trầm trọng nên vợ chồng đã sống ly thân nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Ph đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc D.

-Về con chung: Có 01 con chung là cháu Nguyễn Vũ Hải Đ, sinh ngày 11/5/2017. Khi ly hôn chị Ph xin được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung số tiền 2.000.000đ/tháng cho đếnkhi cháu Đ thành niên, tự lao động nuôi sống bản thân. Lý do anh D trình bày về việc chị không quan tâm chăm sóc con là không đúng. Chị đến thăm con thì bị anh D đánh, sự việc chị có báo Công an phường Tr lập biên bản. Vì vậy chị không dám đến thăm con nữa.

-Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

-Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Theo các lời khai tại hồ sơ và tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Ngọc D trình bày:

Anh và chị Vũ Thị Ph kết hôn với nhau vào năm 2015, hôn nhân tựnguyện có làm thủ tục đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường Tr, TP. B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng thời gian về sau thì thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính cách của hai vợ chồng không hòa hợp nên thường xuyên xảy ra tranh cãi như chịPh trình bày là đúng. Hai gia đình nội ngoại đã nhiều lần tạo điều kiện hòa giải đoàn tụ, nhưng kết quả không thành. Do mâu thuẫn trầm trọng nên vợ chồng đã sống ly thân nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mụcđích hôn nhân không đạt được nên đối với yêu cầu xin ly hôn của chị Ph thì anh Duy đồng ý.

-Về con chung: Có 01 con chung là cháu Nguyễn Vũ Hải Đ, sinh ngày 11/5/2017. Khi ly hôn anh D xin được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung, anh không yêu cầu chị Ph cấp dưỡng nuôi con chung. Anh xét thấy, chị Ph không quan tâm chăm sóc con, bỏ mặc con cho bố và gia đình chồng chăm sóc mấy tháng nay. Thu nhập của chị Ph thấp hơn anh, ngoài ra còn phải trả nợ ngân hàng, với khoản thu nhập của chị Ph không thể lo được cho con. Giao con cho chị Ph anh không yên tâm nên đề nghị Tòa án xem xét cho anh được trực tiếp nuôi con.

-Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

-Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả xét hỏi tại phiên tòa. Căn cứ vào phát biểu của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án là chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng:

Chị Vũ Thị Ph và anh Nguyễn Ngọc D kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn, đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật, được xác định là hôn nhân hợp pháp. Nay có đơn xin ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, Tòa án nhân dân thành phố B đã thụ lý giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về Nội dung vụ án: Hội đồng xét xử nhận thấy

[1]Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Ph và anh Nguyễn Ngọc D kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn, đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật, được xác định là hôn nhân hợp pháp. Chị Ph, anh D sau khi keát hoân, chung soáng vôùi nhau haïnh phuùc được một thời gian, đến năm 2016 thì phaùt sinh maâu thuaãn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau.

Nay chị Ph xin ly hôn, anh D cũng đồng ý nên ghi nhận sự thuận tình ly hôn của chị Phương, anh D.

[2]Về con chung: Có 01 con chung là cháu Nguyễn Vũ Hải Đ, sinh ngày11/5/2017. Hiện tại cháu Đ đang sống với anh D và ông bà nội của cháu. Khi ly hôn chị Ph xin được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung số tiền 2.000.000đ/tháng cho đến khi cháu Đ thành niên, tự lao động nuôi sống bản thân.

Khi ly hôn anh D cũng xin được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung, anh không yêu cầu chị Ph cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét thấy nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con của chị Ph, anh D là chính đáng. Việc chăm sóc và nuôi dưỡng con cái là trách nhiệm của cha mẹ. Tuy hiện tại cháu Đ đang sống với anh D và được bố và ông bà nội chăm sóc tốt nhưng cháu chưa đủ 36 tháng tuổi, chị Ph có công việc làm và thu nhập ổn định, có đủ điều kiện để trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con.

Việc anh D và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho anh D trình bày về việc chị Ph không quan tâm con cái, đang nợ ngân hàng nên không đủ điều kiện về kinh tế để lo cho con, lo ăn chơi chỉ nghĩ đến bản thân nên không đủ tư cách làm mẹ là không có căn cứ.

Căn cứ khoản 3 điều 81 Luật Hôn nhân gia đình, có căn cứ chấp nhận yêu cầu được trực tiếp nuôi con của chị Ph.

Giao cháu Nguyễn Vũ Hải Đ, sinh ngày 11/5/2017 cho chị Vũ Thị Ph trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng.

Anh D cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ từ khi án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu Đ thành niên, có khả năng tự lao động nuôi sống bản thân.

[3]Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[4]Về nợ chung: Không có nên không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí HNGĐ-ST: Chị Ph phải chịu tiền án phí xin ly hôn là 300.000đ. Anh D phải chịu tiền án phí về việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Quan điểm của ông Cao Quang T, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Ngọc D không phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 203, Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình 2014.

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Công nhận sự thuận tình ly hôn của chị Vũ Thị Ph và anh Nguyễn Ngọc D.

-Về con chung:

Giao cháu Nguyễn Vũ Hải Đ, sinh ngày 11/5/2017 cho chị Vũ Thị Ph trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng.

Anh D cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ từ khi án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu Đăng thành niên, có khả năng tự lao động nuôi sống bản thân.

Anh D được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở, vì lợi ích của con, khi cần thiết hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: không đặt ra để xem xét.

- Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: chị Vũ Thị Ph phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng). Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Phương đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 007621 ngày 05 tháng 6 năm 2018 của chi cục Thi hành án dân sự TP. B.

Anh D phải chịu án về việc cấp dưỡng nuôi con là 300.000đ.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 02 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự. Thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 346/2018/HNGĐ-ST ngày 24/09/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:346/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về