Bản án 342/2019/HSPT ngày 01/11/2019 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 342/2019/HSPT NGÀY 01/11/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Vào ngày 01 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 264/2019/TLPT-HS ngày 29 tháng 7 năm 2019 đối vớ Nguyễn Trường Q về tội “Giết người”. Do có kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 27/2019/HS-ST ngày 20/06/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1335/2019/QĐXXPT-HS ngày 01 tháng 10 năm 2019.

* Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Trường Q (M), sinh năm: 1993, tại huyện I, tỉnh Gia Lai; Nơi ĐKHKTT và Chỗ ở: Thôn 3, xã I, huyện I, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Đình K, sinh năm 1955 và bà Trần Thị N, sinh năm 1959; có vợ là Lê Thị Hoài T, sinh năm 1996 (đã ly hôn năm 2016), có 1 con sinh năm 2014. Tiền án; tiền sự: không; Bị cáo đầu thú bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2018 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam T20 - Công an tỉnh Gia Lai. Có mặt.

* Bị hại:

1. Võ Xuân T, sinh ngày: 10/5/1996 (đã chết)

2. Lê Phú N, sinh năm 1990 (đã chết)

* Người đại diện hợp pháp của bị hại Võ Xuân T: Ông Võ Văn Q, sinh năm 1962 và bà Trà Thị H, sinh năm 1963. Vắng. Trú tại: tỉnh Gia Lai.

* Người đại diện hợp pháp của bị hại Lê Phú N: Bà Lê Thị Đ, sinh năm 1964. Vắng.

Trú tại: tỉnh Gia Lai.

* Người bào chữa cho bị cáo: ông Trần Văn G là luật sư của Văn phòng luật sư M thuộc Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai. Có mặt.

Đa chỉ: tỉnh Gia Lai.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Đình K, sinh năm 1955; Vắng.

Bà Trần Thị N, sinh năm 1959; Có mặt. 

Trú tại: tỉnh Gia Lai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 20/12/2018, Lê Phú N mời nhóm bạn đến uống rượu tại quán N thuộc làng L, xã O huyện I, gồm: Võ Xuân T, Lê Đình H, Nguyễn Trường Q, Trần Văn P, Đỗ Đức D, Nguyễn Xuân P1, Vương Q T1 và Nguyễn Văn C và một số người bạn của N. Trong lúc uống rượu không xảy ra mâu thuẫn gì. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày thì nghỉ, N cùng Võ Xuân T, Lê Đình H, Nguyễn Trường Q, Trần Văn P, Đỗ Đức D, Nguyễn Xuân P1, Vương Q T1 và Nguyễn Vãn C đi về nhà thuê của N tại làng Bi, xã O, huyện I uống nước, nằm nghỉ.

Khi về đến nhà thuê của N, P1 mượn xe máy Nouvo BKS 81VI-095.87 của Q đi cắt tóc; Q, D, C và H nằm nghỉ ở võng trước sân nhà; còn P, T và N đứng ngoài sân. Lúc này, T muốn đi ra khu vực lòng hồ Thủy điện Sê San để tắm, nhưng N ngăn cản, nói với T đã uống nhiều rượu rồỉ không nên đi tắm sông, thì giữa T và N xảy ra cãi nhau to tiếng.

Nghe hai người cãi nhau qua lại, ồn ào nên Q ngồi ở võng quay vào nói “toàn anh em trong nhà không mà cãi nhau làm gì, ồn ào quá, im hết đi”, thì T quay sang chỉ mặt Q văng tục và nói “Thằng kia mày vừa nói gì, không phải chuyện của mày” rồi xông đến đòi đánh Q thì được N, D, T1, C và H can ngăn không cho hai người đánh nhau. Sau đó, D gọi điện thoại bảo P1 trả xe máy để chở Q về, rồi D cùng Q và C đi bộ về hướng thị trấn K, huyện I thì gặp P1 điều khiển xe máy Nouvo đến chở D, Q và C đến quán cà phê võng út Q (cách nhà N khoảng 02Km) gọi nước uống và nằm nghỉ. Lúc này, T1 cũng điều khiển xe máy đi theo đến quán út Q nằm võng ngủ.

Đến khoảng 16 giờ cùng ngày tại quán út Q, nghĩ lại việc bị T vô cớ chửi, đòi đánh mình nên Q bực tức và nảy sinh ý định tìm T để đánh trả thù. Thấy D, C, P1 và T1 đang nằm ngủ, Q điều khiển xe máy Nouvo BKS 81VI - 095.87 quay lại nhà thuê của N để tìm T. Khi đến, thấy anh T đang ngồi trên ghế nhựa chơi điện thoại, còn anh N và P đang nằm trên võng cạnh chỗ T ngồi. Q dừng xe ngoài đường, mở cốp lấy 01 con dao (do Q mang theo từ trước), rút con dao ra khỏi vỏ, cầm dao trên tay phải chạy đến chỗ anh T. Thấy Q chạy đến anh T đứng dậy, Q không nói gì, ở tư thế đối diện cầm dao đâm một nhát trúng vào vùng ngực bên trái làm anh T ngã gục xuống sân nhà. Thấy Q cầm dao đâm anh T, anh N đang nằm võng bến cạnh vùng dậy xông đến đứng đối diện với Q, hai tay nắm giữ vai áo Q nói “Mày làm gì vậy M”, thì Q tiếp tục dùng dao đâm một nhát trúng vào vùng lưng bên trái làm anh N ngã xuống sân nhà. Khi sự việc xảy ra, anh Trần Văn P ngồi ở võng bên cạnh nhìn thấy toàn bộ sự việc nên đã truy hô, gọi anh Lê Đình H “H ơi cứu anh N”. Sau đó, anh Trần Văn P, Lê Đình H cùng mọi người đưa anh T và anh N đi cấp cứu nhưng cả hai đã chết trên đường đi.

Sau khi gây án, Nguyễn Trường Q cầm theo dao và điều khiển xe máy Nouvo bỏ trốn khỏi hiện trường, khi chạy đến khu vực Thôn 3, xã I, huyện I thì dừng lại, Q vứt con dao gây án vào bụi cỏ bên trái đường rồi đến Công an xã I, huyện I, tỉnh Gia Lại đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình. Sau khi tiếp nhận tin báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai đã tổ chức khám nghiệm hiện hường, khám nghiệm tử thi, truy tìm vật chứng vụ án.

Khám nghiệm hiện trường, xác định:

Hiện trường xảy ra vụ án tại khu vực sân xi măng nhà bà Ngô Thị Như N, thuộc làng Bi, xã O, huyện I, tỉnh Gia Lai. Phía trước nhà là sân xi măng kích thước (7,5 X 10)m, phía trên có mái che khung kim loại lợp tol. Khu vực sân phía Đông Bắc (khu bán quán cũ) kích thước (6,5 X 3)m chôn một số trụ kim loại, hàn các thanh ngang tròn dọc theo các trụ. Bên trong khu vực này được mắc 05 cái võng, kê 2 bàn nhựa và một số ghế nhựa. Cách chiếc võng thứ nhất (tính từ trong ra) 1,7m phát hiện dấu vết chất màu nâu nghi máu dạng loang và nhỏ giọt đã khô trong diện (0,7 X 0,5)m (Vị trí số 1).

Cách vị trí số 1 về phía Nam 2.3m, cách cửa ra vào đường luồng 0,45m về phía Tây Bắc phát hiện đám chất màu nâu nghi máu thứ 2 dạng loang và nhỏ giọt đã khô trong diện (0,8 X 0,7)m. Sát vị trí số 1 và 2 về phía Tây Nam phát hiện nhiều dấu vết chất màu nâu nghi máu dạng nhỏ giọt đã khô trong diện (2,1 X 2,5)m. Sau khám nghiệm đã thu giữ dấu vết chất màu nâu nghi máu tại vị trí số 1 và số 2.

Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Gia Lai đã trưng cầu giám định đối với dấu vết, mẫu vật thu giữ tại hiện trường và trên vật chứng đã thu giữ.

Tại bản Kết luận giám định số 93/KLGĐ ngày 15/01/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai kết luận :

1. Trên con dao dài 31cm, mũi nhọn, lưỡi dao bằng kìm loại đài 22,8cm (Mẫu ký hiệu A1) và vỏ bọc dao bằng vải màu đen, xám, trắng dài 32,5cm (Mẫu ký hiệu A2) gửi giám định: Có máu người, do máu bị nhiễm nên không xác định được nhóm máu.

2. Cục bông thấm chất màu nâu (nghi máu) ghi thu tại hiện trường (Mẫu ký hiệu A3) gửi giám định: Là máu người, nhóm máu O.

3. Cục bông thấm chất màu nâu (nghi máu) ghi thu tại hỉện trường (Mẫu ký hiệu A4) gửi giám định: Là máu người, nhóm máu A.

4. Mẫu máu ghi thu của nạn nhân Võ Xuân T: Nhóm máu A.

5. Mẫu máu ghi thu của nạn nhân Lê Phú N: Nhóm máu O.

Khám nghiệm tử thi các bị hại, xác định:

- Võ Xuân T có vết thương hình khe tại cung sau sườn bên trái kích thước (5,2 X 2,2)cm, bờ mép sắc gọn gây đứt xương sườn số 8, 9, sâu thấu ngực, bụng, gây đứt cơ hoành xuyên mặt dưới bao tim, gây thủng dạ dày, thủng phổi phải.

Tại Bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 101/GĐPY ngày 05/01/2018, Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Gia Lai kết luận anh Võ Xuân T chết do: “Suy tuần hoàn, suy hô hấp do vết thương thấu ngực, bụng gây thủng phối phải, thủng dạ dày do vật sắc nhọn”. 

- Lê Phú N có vết thương hình khe tại cung sau sườn bên trái kích thước (3,4 X l,4)cm, bờ mép sắc gọn gây đứt xương sườn số 9, sâu thấu ngực, bụng, gây thủng lách trái, thủng phổi trái.

Tại Bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số: 100/GĐPY ngày 06/01/2018, Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Gia Lai kết luận anh Lê Phú N chết do: “Suy tuân hoàn, suy hô hấp do vết thương thấu ngực, bụng gây thủng phổi trái, thủng lách do vật sắc nhọn Vật chứng đã thu giữ:

- 01 con dao dài 31cm, cán dao dài 18,2cm, hai bên cán dao có ốp nhựa đen, trên ốp có chốt 03 đinh vít vào cán dao, lưỡi dao bằng kim loại dài 22,8cm, lưỡi dao có dòng chữ Columbia và SA30, lưỡi dao sắc, mũi nhọn, chỗ rộng nhất 04cm (Trên lưỡi dao có dính nhiều chất màu nâu nghi máu); Bên ngoài có vỏ bọc bằng vải dù màu đen, xám, trắng dài 32,5cm, chỗ rộng nhất là 6,7cm. Nguyễn Trường Q khẳng định con dao thu giữ chính là con dao mà Q đã dùng đâm anh T và N trước đó.

- Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại NOUVO, màu trắng đỏ, BKS 81VI - 095-87, số máy: 1DB1105496; số khung: DB10CY105498 (theo biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu ngày 20/12/2018 do Nguyễn Trường Q giao nộp). Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra xác minh, xác định chiếc xe máy trên là do anh Nguyễn Hoài Phong là chủ sở hữu. Xét thấy, anh Phong không biết việc Nguyễn Trường Q sử dụng chiếc xe máy trên đi gây án, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý trả lại tài sản cho Nguyễn Hoài Phong là chủ sở hữu.

Về trách nhiệm dân sự:

Đại diện hợp pháp của bị hại Võ Xuân T: ông Võ Văn Q và bà Trà Thị H (là cha và mẹ của Võ Xuân T) yêu cầu bị cáo Nguyễn Trường Q bồi thường chi phí mai táng số tiền 119.000.000 đồng; Tiền bồi thường tổn thất tinh thần 139.000.000 đồng.

Gia đình bị cáo Nguyễn Trường Q đã bồi thường cho gia đình của Võ Xuân T số tiền 54.000.000đ (Năm mươi tư triệu đồng). Đến ngày 17/4/2019, gia đình bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền 160.000.000đồng. ông Võ Văn Q và bà Trà Thị H (là cha và mẹ của bị hại Võ Xuân T) đã có đơn xin bãi nại về dân sự, không yêu cầu bị cáo phải tiếp tục bồi thường và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện hợp pháp của bị hại Lê Phú N: Bà Lê Thị Đ (là mẹ của Lê Phú N) yêu cầu bị cáo Nguyễn Trường Q bồi thường chi phí mai táng số tiền 131.000.000 đồng; Tiền bồi thường tổn thất tinh thần 130.000.000 đồng.

Gia đình bị cáo Nguyễn Trường Q đã bồi thường cho gia đình của Lê Phú N số tiền 160.000.000đ (một trăm sáu mươi triệu đồng) và được bà Lê Thị Đ làm đơn bãi nại, không yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 27/2019/HS-ST ngày 20/6/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định: 

[1] Căn cứ vào điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự 2015;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trường Q phạm tội “Giết người”

Xử phạt Nguyễn Trường Q tù chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/12/2018.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 04/7/2019, bị cáo Nguyễn Trường Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Bị cáo, Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo; sửa án sơ thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử thấy đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 16h00 ngày 20/12/2018, do bực tức với thái độ của Võ Xuân T trước đó vô cớ xúc phạm và đòi đánh mình nên Nguyễn Trường Q một mình điều khiển xe mô tô BKS 81V-095.87 đến nhà Lê Phú N đang thuê ở tại làng Bi, xã O, huyện I để tìm Võ Xuân T đánh trả thù. Đến nơi, Q lấy con dao nhọn giấu sẵn trong cốp xe đi đến chỗ T đang ngồi trước sân nhà, đâm một nhát vào ngực trái của T, làm T ngã gục tại chỗ; thấy Q đâm anh T nên N đến túm vai áo giữ Q lại thì bị Q đâm một nhát trúng vùng lưng bên trái làm anh N ngã xuống. Sau đó mọi người đưa T và N đi cấp cứu nhưng cả 2 đã chết.

Theo Bản kết luận pháp y về tử thi số 101/GĐPY ngày 05/01/2019 và số 100/GĐPY ngày 06/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai kết luận: “Võ Xuân T chết do suy tuần hoàn, suy hô hấp do vết thương thấu ngực, bụng gây thủng phổi phải, thủng dạ dày do vật sắc nhọn”; “Lê Phú N chết do suy tuần hoàn, suy hô hấp do vết thương thấu ngực, thủng lách do vật sắc nhọn”. Với hành vi và hậu quả nêu trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2019/HS-ST ngày 20/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Trường Q phạm tội “Giết người” theo quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, nhận thấy: Bị cáo bị truy tố, xét xử về tội “Giết người” theo điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, thuộc trường hợp: “Giết 2 người trở lên” và “Có tính chất côn đồ”, có khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Sau khi phạm tội bị cáo đã thật thà khai báo, tác động gia đình bồi thường 160.000.000 đồng cho gia đình bị hại Võ Xuân T và 160.000.000 đồng cho gia đình bị hại Lê Phú N, được gia đình các bị hại bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt, nên án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo tù Chung thân là không nặng, đúng với tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt nào mới, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2019/HS-ST ngày 20/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.

[3]. Các Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2019/HS-ST ngày 20/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Trường Q phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Từ nhận định trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Trường Q (M); Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2019/HS-ST ngày 20/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.

- Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường Q (M) tù Chung thân về tội “Giết người”. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày 20/12/2018.

2. Về án phí phúc thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Q hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Trường Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị và được thi hành theo quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số27/2019/HS-ST ngày 20/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 342/2019/HSPT ngày 01/11/2019 về tội giết người

Số hiệu:342/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về