Bản án 34/2021/HS-PT ngày 13/05/2021 về tội tổ chức đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 34/2021/HS-PT NGÀY 13/05/2021 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Trong ngày 13 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 38/2021/TLPT-HS ngày 10 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo Bùi Thị S, Đặng Thị L, Huỳnh Thị M, Nguyễn Hồng D do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2021/HS-ST ngày 06/01/2021 của Tòa án nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Bùi Thị S, sinh năm 1972, nơi sinh Cần Thơ. Nơi cư trú: Khu vực A, phường B, quận C, thành phố Cần Thơ. Giới tính: nữ, quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, tôn giáo: không, trình độ học vấn: 01/12, nghề nghiệp: nội trợ. Con ông Bùi Văn L và bà Nguyễn Thị K. Anh, chị, em ruột: có 09 người. Chồng: Lê Văn P, sinh năm 1965. Con: 02 người, lớn sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 1996. Tiền án, tiền sự: không (vắng mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Bùi Thị S: Luật sư Nguyễn Thanh H, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Cần Thơ (Có mặt).

2. Đặng Thị L, sinh năm 1964, nơi sinh Cần Thơ. Nơi cư trú: Khu vực A, phường B, quận C, thành phố Cần Thơ. Giới tính: nữ, quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, tôn giáo: không, trình độ học vấn: 04/12, nghề nghiệp: buôn bán. Con ông Đặng Ngọc H (chết) và bà Nguyễn Thị B (chết). Anh, chị, em ruột: có 05 người. Chồng: Trần Văn M, sinh năm 1962. Con: Có 02 người, lớn sinh năm 1983, nhỏ sinh năm 1986. Tiền án, tiền sự: không (có mặt).

3. Huỳnh Thị M, sinh năm 1972, nơi sinh Cần Thơ. Nơi cư trú: Khu vực A, phường B, quận C, thành phố Cần Thơ. Giới tính: nữ, quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, tôn giáo: không, trình độ học vấn: 9/12, nghề nghiệp: buôn bán. Con ông Huỳnh Văn B (sống) và bà Trần Thị T (chết). Anh, chị, em ruột: có 08 người. Chồng: Lưu Minh T, sinh năm 1970. Con: Có 02 người, lớn sinh năm 1991, nhỏ sinh năm 1993. Tiền án, tiền sự: không (có mặt).

- Người bào chữa cho các bị cáo Đặng Thị L, Huỳnh Thị M: Luật sư Nguyễn Quốc thuộc Đoàn Luật sư thành phố Cần Thơ (Có mặt).

4. Nguyễn Hồng D, sinh năm 1989, nơi sinh Hậu Giang. Nơi cư trú: Khu vực A, phường B, quận C, thành phố Cần Thơ. Giới tính: nữ, quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh; tôn giáo: không, trình độ học vấn: 9/12, nghề nghiệp: nội trợ. Con ông Nguyễn Văn S và bà Lê Hồng T. Anh, chị, em ruột có 01 người. Chồng: Nguyễn Văn H, sinh năm 1987. Con: Nguyễn Hạnh V sinh ngày 16/10/2020. Tiền án, tiền sự: không (có mặt).

Các bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 07/5/2020.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ ngày 22/3/2020, lực lượng Cảnh sát Hình sự Công an quận C phối hợp với Công an phường L kiểm tra phát hiện một nhóm người đang tham gia đánh bạc dưới hình thức đánh bài được thua bằng tiền tại một khu đất phía sau vườn nhà số 102 thuộc tổ 13, Khu vực A, phường B, quận C, thành phố Cần Thơ. Vật chứng thu giữ: 01 chiếc chiếu; 05 bộ bài tây loại 52 lá đã qua sử dụng; tiền thu giữ trực tiếp trên chiếu bạc là 3.300.000 đồng và tiền thu giữ trên người tham gia đánh bạc là 25.030.000 đồng.

Quá trình điều tra đã xác định được số tiền đánh bạc và vai trò của từng đối tượng, cụ thể như sau:

- Bùi Thị S bắt đầu tổ chức đánh bạc tại khu đất vườn phía sau nhà của S tại Khu vực A, phường B, quận C từ ngày 19/3/2020 đến khi bị kiểm tra phát hiện. Hình thức chơi bài là loại bài binh kiểu Ấn Độ 06 lá được thua bằng tiền chia làm 06 tụ chơi bao gồm 01 tụ cái để tính được thua với 05 tụ còn lại theo phương thức làm nhà cái xoay vòng nhưng không theo quy luật cụ thể, mỗi tụ đặt cược từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Đối với mỗi lượt làm nhà cái, S sẽ thu “tiền xâu” từ 10.000 đồng đến 20.000 đồng. Chỉ riêng trong ngày 22/3/2020, S thu lợi được số tiền 170.000 đồng từ việc tổ chức đánh bạc và tổng số tiền S hưởng lợi được trong thời gian tổ chức đánh bạc từ ngày 19/3/2020 đến ngày 22/3/2020 là 800.000 đồng. Qua kiểm tra, lực lượng Công an thu giữ của S số tiền 170.000 đồng là tiền hưởng lợi từ việc tổ chức đánh bạc và thu giữ trên người của S số tiền 1.300.000 đồng.

- Đặng Thị L mang theo số tiền 4.100.000 đồng và sử dụng số tiền 500.000 đồng để tham gia đánh bạc, chơi chung tụ bài của Nguyễn Thị T và Lê Thị Kim X. Quá trình chơi, L thua 100.000 đồng. Khi bị kiểm tra Công an thu giữ tại tụ bài 200.000 đồng và thu giữ trên người L 3.800.000 đồng, trong đó có 200.000 đồng là tiền dùng để đánh bạc.

- Nguyễn Thị T mang theo 220.000 đồng để tham gia đánh bạc, chơi chung tụ bài với Đặng Thị L và Lê Thị Kim X. Quá trình chơi, T thua 120.000 đồng, khi bị kiểm tra Công an thu giữ tại tụ bài 100.000 đồng.

- Nguyễn Thị Út Đ mang theo 300.000 đồng và sử dụng số tiền này để đánh bạc, chơi chung tụ bài với Nguyễn Thị V. Quá trình chơi, Út Đ thua 100.000 đồng, khi bị kiểm tra Công an thu giữ tại tụ bài 200.000 đồng.

- Huỳnh Thị M mang theo 9.000.000 đồng và bỏ ra số tiền 1.000.000 đồng góp đưa cho Nguyễn Văn S để tham gia đánh bạc. Khi Công an kiểm tra thu giữ trên người của M 8.000.000 đồng.

- Lê Thị Kim X mang theo 350.000 đồng để tham gia đánh bạc, chơi chung tụ bài với Đặng Thị L và Nguyễn Thị T. Quá trình chơi, X thua 100.000 đồng, khi bị kiểm tra Công an thu giữ tại tụ bài 50.000 đồng và thu giữ trên người 200.000 đồng là tiền dùng để đánh bạc.

- Nguyễn Hồng D mang theo 2.480.000 đồng và sử dụng số tiền này để đánh bạc. Quá trình chơi, D thua 1.200.000 đồng, khi bị kiểm tra Công an thu giữ tại tụ bài của D 300.000 đồng và thu giữ trên người 980.000 đồng.

- Nguyễn Thị V mang theo 250.000 đồng để tham gia đánh bạc, chơi chung tụ bài với Nguyễn Thị Út Đ. Quá trình chơi, V thua 100.000 đồng, khi bị kiểm tra Công an thu giữ tại tụ bài 50.000 đồng và thu giữ trên người 100.000 đồng là tiền dùng để đánh bạc.

- Nguyễn Văn D mang theo 250.000 đồng để tham gia đánh bạc. Quá trình chơi D hòa, khi bị kiểm tra Công an thu giữ tại tụ bài của D 100.000 đồng và thu giữ trên người 150.000 đồng là tiền dùng để đánh bạc.

- Trần Thị T mang theo 1.150.000 đồng để tham gia đánh bạc, chơi chung tụ bài của Nguyễn Văn S. Quá trình chơi, T thua 400.000 đồng, còn lại 750.000 đồng trong lúc bị Công an kiểm tra làm rơi mất 150.000 đồng, bị thu giữ trên người 600.000 đồng là tiền sử dụng vào việc đánh bạc.

- Nguyễn Văn S mang theo 1.700.000 đồng và sử dụng số tiền 1.000.000 đồng để đánh bạc chơi cùng tụ bài với Huỳnh Thị M. M bỏ ra 1.000.000 đồng góp đưa cho S để đánh bạc. Quá trình chơi, S thắng 200.000 đồng, khi bị kiểm tra Công an thu giữ của S 2.900.000 đồng.

Như vậy, tổng số tiền Đặng Thị L, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị Út Đ, Huỳnh Thị M, Lê Thị Kim X, Nguyễn Hồng D, Nguyễn Thị V, Nguyễn Văn D, Trần Thị T và Nguyễn Văn S sử dụng vào việc đánh bạc là 7.730.000 đồng, trong đó tiền thu giữ trực tiếp tại chiếu bạc là 3.300.000 đồng và tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc thu được trên người tham gia đánh bạc là 4.430.000 đồng. Ngoài ra, vào thời điểm lực lượng Công an kiểm tra còn một số người tham gia đánh bạc khác nhưng đã tháo chạy. Do không xác định được nhân thân lai lịch cụ thể nên không tiếp xúc làm việc được. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra xử lý sau.

Tại bản án số 01/2021/HS-ST ngày 06/01/2021 của Tòa án nhân dân quận C đã quyết định:

Căn cứ: Điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 322; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Thị S 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù và phạt bổ sung 20.000.000đồng về tội “Tổ chức đánh bạc”.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt các bị cáo Đặng Thị L, Huỳnh Thị M, Nguyễn Hồng D mỗi bị cáo 03 (ba) tháng tù về tội “Đánh bạc”.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định hình phạt đối với 07 bị cáo khác, quyết định phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi tuyên án sơ thẩm, bị cáo Bùi Thị S, Đặng Thị L, Huỳnh Thị M, Nguyễn Hồng D kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Các bị cáo Đặng Thị L , Huỳnh Thị M, Nguyễn Hồng D thay đổi yêu cầu kháng cáo, xin được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính.

- Luật sư Nguyễn Thanh H phát biểu: Bị cáo S vẫn giữ yêu cầu theo đơn kháng cáo ban đầu là xin được hưởng án treo vì hiện tại bị cáo S có bệnh cao huyết áp và bệnh viêm khớp, đó cũng là lý do bị cáo S vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm. Bị cáo S có hoàn cảnh gia đình khó khăn, Tòa án cấp sơ thẩm quá nghiêm khắc khi áp dụng hình phạt tù là hình phạt chính, còn áp dụng hình phạt bổ sung với số tiền 20.000.000đồng, mức hình phạt đã tuyên không quá 03 năm tù nên bị cáo S đủ điều kiện để áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự. Đề nghị xem xét cho bị cáo S được hưởng án treo.

- Luật sư bào chữa cho các bị cáo thống nhất với tội danh Tòa cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo, thống nhất với phần phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm. Luật sư cho rằng các bị cáo L và M đều không có tiền án, tiền sự; được địa phương xác nhận luôn chấp hành tốt quy định ở địa phương và đề nghị xem xét đến điều kiện hoàn cảnh của các bị cáo và đề nghị chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị căn cứ Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt bị cáo Bùi Thị S và nhận định: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo biết rõ hành vi đã thực hiện là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Mức án tòa cấp sơ thẩm tuyên có xem xét các tình tiết giảm nhẹ mà các bị cáo được hưởng.

Kháng cáo của bị cáo Bùi Thị S không có căn cứ để chấp nhận bởi hành vi tổ chức đánh bạc của bị cáo S là nguy hiểm cho xã hội, tạo điều kiện cho các con bạc thực hiện hành vi đánh bạc gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Bị cáo S chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên không đủ điều kiện để áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự.

Đối với kháng cáo của các bị cáo M , L , D xét thấy các bị cáo đều phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; có địa chỉ rõ ràng, hành vi của các bị cáo không còn nguy hiểm cho xã hội có thể áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính cũng đủ để răn đe, giáo dục các bị cáo.

Đề nghị sửa một phần bản án sơ thẩm, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo M , L , D; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo S .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đối chiếu với các chứng cứ có trong hồ sơ thấy rằng quá trình tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm đã tuân thủ các quy định của pháp luật. Chứng cứ tại hồ sơ đủ cơ sở kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo và quyết định các vấn đề có liên quan trong vụ án.

[2] Bị cáo Bùi Thị S đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên căn cứ Điều 351 Bộ luật Tố tụng Hình sự tiếp tục xét xử vắng mặt bị cáo S .

[3] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa sơ và phúc thẩm phù hợp với các biên bản ghi lời khai cùng các chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận: Các bị cáo Đặng Thị L , Huỳnh Thị M, Nguyễn Hồng D, Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị Út Đ, Lê Thị Kim X, Nguyễn Văn D, Trần Thị T, Nguyễn Văn S trong cùng một lúc tham gia đánh bạc (dưới hình thức chơi bài binh kiểu Ấn Độ) ăn thua bằng tiền tại khu đất thuộc quyền quản lý của bị cáo Bùi Thị S; bị cáo S là người cung cấp các bộ bài và thu tiền xâu. Tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc khi bị bắt giữ là 7.730.000đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Bùi Thị S về tội tổ chức đánh bạc theo điểm a khoản 1 Điều 322 và xét xử xác bị cáo còn lại trong vụ án về tội đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[4] Hành vi của các bị cáo xâm phạm trực tiếp đến an ninh trật tự công cộng và nếp sống văn minh của xã hội. Các bị cáo đều là người có đủ năng lực, hành vi chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy xét xử và buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự, hình phạt theo mức độ, vai trò của mỗi bị cáo đã thực hiện mới có tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 14/01/2021 bị cáo Bùi Thị S có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt đến ngày 18/01/2021 bị cáo S có đơn kháng cáo bổ sung yêu cầu được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính, các bị cáo Đặng Thị L, Huỳnh Thị M, Nguyễn Hồng D có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo, tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo D, M, L thay đổi yêu cầu kháng cáo xin được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính. Xét thấy:

[5.1] Bị cáo Bùi Thị S là người tổ chức chiếu bạc, cung cấp các bộ bài tây tạo điều kiện cho các bị cáo khác tham gia đánh bạc gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên tương xứng với mức độ phạm tội của bị cáo. Bị cáo chỉ có một tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự nên không đủ điều kiện để áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự theo đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo.

[5.2] Đối với kháng cáo của các bị cáo Đặng Thị L , Huỳnh Thị M, Nguyễn Hồng D: Các bị cáo đều thuộc thành phần lao động; có địa chỉ rõ ràng; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trước đây có bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng thời gian được xem không còn tiền sự đã hơn 06 tháng. Ở giai đoạn phúc thẩm các bị cáo có cung cấp xác nhận của địa phương về việc chấp hành tốt quy định ở địa phương trong thời gian bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú nên không cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội. Mặt khác, động cơ phạm tội của các bị cáo là do hám lợi nên việc áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính với mức phạt nghiêm khắc cũng đảm bảo được tính răn đe, giáo dục đối với các bị cáo nên thống nhất với đề nghị của kiểm sát viên chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

[6] Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[7] Các bị cáo Đặng Thị L, Huỳnh Thị M, Nguyễn Hồng D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Bùi Thị S phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a, b khoản 1, Khoản 2 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Thị S; chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đặng Thị L, Huỳnh Thị M, Nguyễn Hồng D; sửa một phần quyết định của Bản án sơ thẩm số 01/2021/HS-ST ngày 06 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận C về phần hình phạt đối với các bị cáo Đặng Thị L, Huỳnh Thị M, Nguyễn Hồng D.

1/ Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 322; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51; Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Thị S phạm tội “Tổ chức đánh bạc” Xử phạt: Bùi Thị S 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2/ Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: Các bị cáo Đặng Thị L, Huỳnh Thị M, Nguyễn Hồng D phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt: Các bị cáo Đặng Thị L, Huỳnh Thị M, Nguyễn Hồng D mỗi bị cáo 30.000.000đồng (ba mươi triệu đồng).

3/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành.

4/ Các bị cáo Đặng Thị L , Huỳnh Thị M, Nguyễn Hồng D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; bị cáo Bùi Thị S phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2021/HS-PT ngày 13/05/2021 về tội tổ chức đánh bạc

Số hiệu:34/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về