Bản án 34/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 34/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 37/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Lò Văn M; sinh năm: 1990; nơi sinh: huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; nơi cư trú: bản NO, xã NH, huyện SH, tỉnh LC; nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: T; tôn giáo: không; con ông Lò Văn O và bà Lò Thị N; vợ, con: không; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: bị cáo là người nghiện chất ma túy; bị bắt hồi 18 giờ 00 phút ngày 25 tháng 9 năm 2019; tạm giữ từ 23 giờ 30 phút ngày 25 tháng 9 năm 2019 đến 23 giờ 30 phút ngày 04 tháng 10 năm 2019; bị cáo được tại ngoại theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 37/CQĐT, ngày 04 tháng 10 năm 2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 17 giờ 00 phút, ngày 25 tháng 9 năm 2019, Lò Văn M điều khiển chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave RS, màu đen - trắng, biển kiểm soát: 25B1-130.74 của ông Với Văn Ả (sinh năm: 1982, trú tại: bản Noong Om, xã Noong Hẻo, huyện Sìn Hồ) cùng ông Lý Văn D (sinh năm: 1986; trú tại: bản Noong Om, xã Noong Hẻo, huyện Sìn Hồ) điều khiển xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe BLADE màu xanh – đen, chưa có biển kiểm soát của Dên, đi chở lúa cho gia đình D. M điều khiển xe máy đi trước, còn D điều khiển xe đi sau. Khi đi đến ngã tư xã Noong Hẻo, M gặp Lò Văn H (sinh năm: 1989; trú tại: bản Noong Hẻo 1, xã Noong Hẻo) thì M dừng xe lại, Dên điều khiển xe đi sau cũng dừng lại cách M khoảng 02 đến 03 mét. M hỏi và mua của H 01 gói Heroine (được gói ngoài bằng mảnh giấy màu trắng, có dòng kẻ và nhiều chữ đánh máy) với giá 100.000 đồng. Mua được Heroine (Hêrôin), M cầm trên tay phải và không nói cho D biết rồi điều khiển xe máy đi trước, D điều khiển xe máy đi sau. Trên đường đi, M vừa điều khiển xe máy, vừa rủ Dên đi sử dụng Hêrôin, nhưng Dên nghe không rõ hiểu nhầm là M rủ đi vệ sinh nên đã đồng ý. Khi đi xe máy đến khu vực đồi trồng cao su thuộc bản Noong Om, xã Noong Hẻo, M dừng xe lại dưới đường rồi đi bộ lên đồi cao su, còn D đi xe máy lên thẳng đồi cao su để đi vệ sinh. Vào hồi 18 giờ 00 phút cùng ngày, khi M đi bộ lên đồi cao su cách vị trí M dựng xe khoảng 50 mét thì dừng lại để sử dụng Hêrôin. Khi M chưa kịp sử dụng Hêrôin thì bị Tổ công tác Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu phát hiện. M thả gói Hêrôin đang cầm ở tay phải xuống đất tại vị trí M đang đứng thì bị bắt quả tang. M tự giác nhặt gói Hêrôin vừa thả xuống giao nộp cho Tổ công tác Công an huyện Sìn Hồ.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng và trích mẫu giám định hồi 15 giờ 10 phút, ngày 26 tháng 9 năm 2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu xác định: khối lượng của 01 gói chất bột màu trắng (sau khi loại bỏ bao bì) thu giữ của Lò Văn M có khối lượng là 0,11 gam; lấy toàn bộ 0,11 gam chất bột màu trắng làm mẫu gửi giám định chất ma túy.

Tại Kết luận giám định tư pháp số 21 của người giám định tư pháp theo vụ việc thuộc Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu ngày 26 tháng 9 năm 2019 kết luận: 01 (một) gói chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn M (sau khi đã loại bỏ bao bì) có khối lượng 0,11 (không phẩy mười một) gam.

Tại Bản kết luận giám định số: 434/GĐ-KTHS ngày 01 tháng 10 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 01 (một) mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn M gửi đến giám địnhh là ma túy, loại Heroine.

Tại Bản cáo trạng số: 37/CT-VKS-SH, ngày 11 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu để xét xử bị can Lò Văn M về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố, không oan, không sai.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố, bị cáo Lò Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lò Văn M từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự; đối với 0,11 gam Hêrôin đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu gửi đi giám định, sau khi giám định, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu không hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định, nên không đề cập xử lý tại phiên tòa; đối với 01 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ và nhiều chữ đánh máy, là công cụ đã được sử dụng để gói 0,11 gam Hêrôin, nên đề nghị tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các tài liệu, chứng cứ được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Nên các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[2] Đánh giá chứng cứ, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ được thu thập đúng trình tự thủ tục tố tụng hình sự đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Có đủ cơ sở để xác định bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Vào hồi 18 giờ 00 phút, ngày 25 tháng 9 năm 2019, tại khu đồi cao su thuộc bản Noong Om 1 (hiện nay là bản Noong Om), xã Noong Hẻo, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu, Lò Văn M đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,11 gam Hêrôin với mục đích để bản thân sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang. Do đó, bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Nhng chứng cứ buộc tội, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ pháp luật, phù hợp với mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội bị cáo thực hiện, phù hợp với nhân thân của bị cáo, phục vụ tốt công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở địa phương.

Hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Ma túy đang là hiểm họa của toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân làm lan truyền nhiều loại bệnh tật, gia tăng các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Bị cáo là người biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là gây nguy hại cho xã hội, là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Nên cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật; đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo không được đi học nên nhận thức, hiểu biết xã hội có phần hạn chế. Bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng trong pháp luật của Nhà nước.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản; bị cáo không lao động trong các ngành, nghề hoặc đảm nhiệm công việc cần phải cấm; nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đi với 0,11 gam Hêrôin thu giữ của bị cáo, Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng và trích mẫu giám định hồi 15 giờ 10 phút, ngày 26 tháng 9 năm 2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu lấy toàn bộ 0,11 gam gửi đi giám định. Sau khi giám định, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu không hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định.

Vật chứng còn lại trong vụ án là 01 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ và nhiều chữ đánh máy, là vật đã được sử dụng để gói 0,11 gam Hêrôin, là công cụ phạm dùng để thực hiện hành vi phạm tội. Hiện nay, mảnh giấy này không có giá trị, không sử dụng được, nên bị tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên bị cáo được miễn nộp tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

[8] Về quyền kháng cáo: Theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

[9] Về nguồn gốc số Hêrôin thu giữ của bị cáo và trách nhiệm của người có liên quan:

Theo lời khai của bị cáo, bị cáo đã mua 01 gói Hêrôin của Lò Văn Hùng vào ngày 25 tháng 9 năm 2019, tại khu vực ngã tư đường thuộc xã Noong Hẻo, huyện Sìn Hồ. Trong quá trình điều tra, Hùng không thừa nhận đã bán Hêrôin cho bị cáo. Ngoài lời khai duy nhất của bị cáo, không có tài liệu, chứng cứ khác chứng minh Hùng đã bán Hêrôin cho bị cáo. Đến nay, không có căn cứ để xem xét xử lý đối với Hùng về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy.

Đi với Lý Văn D, là người đi cùng với bị cáo. Nhưng Dên không biết bị cáo mua và tàng trữ trái phép chất ma túy, nên D không đồng phạm với bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự,

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Xử phạt bị cáo Lò Văn M 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, được trừ 09 ngày bị cáo đã bị tạm giữ, bị cáo còn phải thi hành 01 (một) năm 05 (năm) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu hủy 01 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ và nhiều chữ đánh máy (hiện đang được lưu giữ, bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu).

4. Án phí sơ thẩm: Áp dụng các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 27 tháng 11 năm 2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sìn Hồ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về