Bản án 34/2019/HS-ST ngày 09/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 34/2019/HS-ST NGÀY 09/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 09 tháng 5 năm 2019, tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã Phú Thịnh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2019/TLST-HS ngày 12/4/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2019/QĐXXST-HS, ngày 26 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trịnh Văn C, sinh ngày 23/8/1997 (Tên gọi khác: Không).

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: xóm Đ, xã P, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 09/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng;

Bố đẻ: Trịnh Văn N, sinh năm 1968, hiện đang chấp hành án phạt tù tại Trại tạm giam N, tỉnh Bắc Giang.

Mẹ đẻ: Trần Thị P, sinh năm 1969, hiện đang xuất khẩu lao động tại Đài Loan. con.

Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ 02 trong gia đình và chưa có vợ Tiền án; Tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/01/2019 cho đến nay, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên và có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Anh Phạm Xuân H, sinh năm 1979 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Xóm Đ, xã Phú Lạc, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 13 giờ 00 phút ngày 22/01/2019 Tổ công tác công an huyện Đại Từ phối hợp với Công an xã Phú Lạc, huyện Đại Từ đến nhà ở của Trịnh Văn C tại xóm Đ, xã P, huyện Đại Từ để kiểm điểm, giáo dục, nhắc nhở C về việc C có hành vi thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy. Quá trình làm việc, C đã tự giác lấy từ trong túi quần phía trước bên phải đang mặc ra giao nộp cho tổ công tác 02 gói nhỏ được gói bằng giấy màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng (C khai là Heroine của C). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đối với C, thu giữ vật chứng và đưa C về Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Đại Từ để làm việc.

Hi 17 giờ 40 phút ngày 22/01/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện Đại Từ khám xét khẩn cấp đối với C, kết quả khám xét không thu giữ gì.

Tại kết luận giám định số 346 ngày 29/01/2019 phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu gửi giám định (C1) thu giữ của C là chất ma túy, loại Heroine có khối lượng là 0,189 gam.

Tại cơ quan điều tra, Trịnh Văn C khai nhận: Bản thân C là người nghiện ma túy nên khoảng 15 giờ 00 phút ngày 21/01/2019 C một mình đi xe buýt Mạnh Hà từ xã B xuống bến xe khách Thái Nguyên (bến xe cũ) để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây C gặp một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ, khoảng 40 tuổi và hỏi mua 400.000 đồng tiền Heroine, người đàn ông này đồng ý. C đưa cho người đàn ông này 400.000 đồng và nhận 04 gói Heroine được gói bằng giấy màu vàng. Sau khi mua được Heroine, C đi xe buýt về nhà và sử dụng hết 02 gói Heroine vừa mua được, còn 02 gói Heroine C cất vào túi quần phía trước bên phải đang mặc để sử dụng dần. Đến khoảng 13 giờ 00 phút ngày 22/01/2019 C bị tổ công tác công an huyện Đại Từ và Công an xã P phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Lời khai nhận tội của Trịnh Văn C phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định ...

Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì ký hiệu C1 mẫu vật còn lại sau giám định; 01 phong bì ký hiệu C2 (bên trong có chứa vỏ giấy gói và vỏ phong bì niêm phong ký hiệu C) được chuyển đến kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đại Từ.

Bản cáo trạng số 29/CT-VKSĐT ngày 11/4/2019 của Viện kiểm sát nhân huyện Đại Từ đã truy tố bị cáo Trịnh Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Kết thúc phần tranh tụng, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng, đã luận tội đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo: Trịnh Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Xử phạt: Trịnh Văn C từ 18 tháng đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam.

Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo C thừa nhận việc truy tố và xét xử là đúng người, đúng tội, không oan sai, bị cáo nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Đại Từ, Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trịnh Văn C khai nhận:

Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, khoảng 15 giờ 00 phút ngày 21/01/2019 bị cáo mt mình đi xe buýt Mạnh Hà từ xã B xuống bến xe khách Thái Nguyên (bến xe cũ) để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại Bến xe khách (cũ) bị cáo gặp một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ, năm sinh, khoảng 40 tuổi và bị cáo hỏi mua 400.000 đồng tiền Heroine, người đàn ông này đồng ý, bị cáo đưa cho người đàn ông này 400.000 đồng và nhận 04 gói Heroine được gói bằng giấy màu vàng. Sau khi mua được Heroine, bị cáo đi xe buýt về nhà và sử dụng hết 02 gói Heroine vừa mua được, còn 02 gói Heroine bị cáo cất vào túi quần phía trước bên phải đang mặc để sử dụng dần. Đến khoảng 13 giờ 00 phút ngày 22/01/2019 Tổ công tác Công an huyện Đại Từ và Công an xã Phú Lạc đến nhà bị cáo để kiểm điểm, giáo dục, nhắc nhở bị cáo việc có hành vi thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy, quá trình làm việc bị cáo đã tự giác nộp từ trong túi quần phía trước bên phải đang mặc ra giao cho tổ công tác 02 gói nhỏ được gói bằng giấy màu vàng bên trong là Heroine bị cáo đã tàng trữ, số Heroine bị cáo tàng trữ có khối lượng 0,189 gam.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, biên bản mở niêm phong - xác định khối lượng, kết luận giám định...

Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 22/01/2019, tại gia đình bị cáo C xóm Đ, xã P, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Trịnh Văn C có hành vi tàng trữ trái phép 0,189 (Không phẩy một tám chín) gam chất ma túy loại Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Hành vi trên của bị cáo C đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Ni dung điều luật như sau:

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, hành vi đó đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý độc dược của nhà nước nói chung và chất ma túy nói riêng, hành vi đó không những làm ảnh hưởng tới sức khỏe của con người mà còn ảnh hưởng và suy hao đến kinh tế là một trong những nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác nên cần xử lý nghiêm minh mới bảo đảm tính răn đe của pháp luật và mang tính phòng ngừa chung.

[4] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo C không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[5] Xét tình tiết tiết giảm nhẹ TNHS thì thấy: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[6] Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo xuất thân từ nhân dân lao động nhưng bị cáo không phát huy được bản chất sẵn có của người lao động để tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành công dân có ích cho xã hội mà bị cáo lao vào con đường nghiện ma túy, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội nên cần phải xử lý nghiêm minh.

[7] Căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù và buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian có như vậy mới đủ để cải tạo và giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội đồng thời mang tính phòng ngừa chung là phù hợp.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, không việc làm, không thu nhập ổn định nên cần miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[9] Vật chứng: 02 phong bì niêm phong (ký hiệu C1 và C2) có chữ ký của các thành phần tham gia và đóng dấu của Công an tỉnh Thái Nguyên (phong bì C1) và Công an huyện Đại Từ (phong bì C2) cần tích thu tiêu hủy.

Về nguồn gốc số Heroine, C khai mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực bến xe khách Thái Nguyên (bến xe cũ), do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông trên nên không có căn cứ để điều tra xử lý.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106, Điều 136 và Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Trịnh Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Trịnh Văn C 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 22/01/2019. Quyết định tạm giam bị cáo C 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo việc thi hành án.

- Hình phạt bổ sung (phạt tiền): Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong (ký hiệu C1 và C2) có chữ ký của các thành phần tham gia và đóng dấu của Công an tỉnh Thái Nguyên (phong bì C1) và Công an huyện Đại Từ (phong bì C2) cần tích thu tiêu hủy (tình trạng theo quyết định chuyển vật chứng số 24/QĐ-VKSĐT ngày 11/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ).

- Về án phí: Buộc bị cáo Trịnh Văn C phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào Ngân sách Nhà nước.

Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2019/HS-ST ngày 09/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đại Từ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về