Bản án 34/2019/HNGĐ-ST ngày 26/02/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 34/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 26 tháng 02 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 794/2018/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2018, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2019/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 02 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị T – sinh năm 1984. Địa chỉ: Ấp R, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau; Chổ ở: Ấp T, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau.

Bị đơn: Anh Phan Thái B – sinh năm 1978. Địa chỉ: Ấp R, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.

Ti phiên tòa, chị T có mặt, anh B vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 04/12/2018 cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lê Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Phan Thái B tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2005, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Trong thời gian chung sống, vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, anh B không quan tâm, chăm sóc gia đình, thường xuyên đánh chị T, hiện anh chị đã ly than nhau. Nay chị T yêu cầu ly hôn với anh B.

Về con chung: Chị và anh B có 02 con chung là cháu Phan Văn Kiệt, sinh ngày 05/11/2006 và cháu Phan Thúy Kiều, sinh ngày 08/9/2008, cháu Kiều hiện đang sống với anh B và cháu Kiệt đang sống với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phan Văn Kiệt, yêu cầu giao cháu Phan Thúy Kiều cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng. Chị không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con cũng như không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ người khác và người khác nợ lại: Chị T xác định không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn là anh Phan Thái B đúng theo quy định pháp luật nhưng anh B không có văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Anh Phan Thái B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên xem như từ bỏ quyền của mình tại phiên tòa. Vì vậy, Tòa án căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt anh Phan Thái B.

[2] Về hôn nhân: Chị Lê Thị T và anh Phan Thái B tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau vào ngày 12/5/2005 đúng theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh B được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp và bảo vệ.

Chị T xác định nguyên nhân dẫn đến yêu cầu ly hôn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, anh B không quan tâm, chăm sóc gia đình, thường xuyên uống rượu và có hành vi bạo lực với chị T nhưng quá trình giải quyết vụ án, phía bị đơn không có văn bản thể hiện ý kiến và phía nguyên đơn không cung cấp tài liệu chứng cứ để chứng minh cho lời trình bày của mình nên không có căn cứ chấp nhận đây là nguyên nhân mâu thuẫn để xem xét cho ly hôn. Tuy nhiên, tại phiên tòa, chị T xác định chị không còn tình cảm vợ chồng với anh B và thể hiện sự quyết tâm mong muốn được ly hôn với anh B. Đồng thời khẳng định đời sống hôn nhân không thể duy trì, mâu thuẫn giữa vợ chồng không thể hàn gắn đoàn tụ. Trường hợp tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị T được ly hôn với anh B.

[3] Về nuôi con chung: Chị T và anh B có 02 người con chung là cháu Phan Văn Kiệt, sinh ngày 05/11/2006 và cháu Phan Thúy Kiều, sinh ngày 08/9/2008. Tại phiên tòa, chị T yêu cầu được nuôi cháu Phan Văn Kiệt, giao cháu Phan Thúy Kiều cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, qua làm việc với cháu Phan Văn Kiệt, cháu có nguyện vọng được sống cùng với mẹ, cháu Phan Thúy Kiều có nguyện vọng được sống cùng với cha. Các cháu hiện đã đủ tuổi để ghi nhận nguyên vọng theo quy định pháp luật, nguyện vọng trên của các cháu là chính đáng nên cần chấp nhận. Mặt khác, do chị T và anh B đã ly thân nhau, hai cháu đã có cuộc sống ổn định với người hiện đang trực tiếp nuôi dưỡng mình nên cần chấp nhận theo nguyện vọng của hai cháu nhằm hạn chế sự ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại của hai cháu. Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, anh B không có văn bản phản bác hay đặt ra yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa, chị T xác định chị đủ điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Kiệt. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu của chị T, giao cháu Phan Văn Kiệt cho Thơm và giao cháu Phan Thúy Kiều cho anh B trực tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Chị T và anh B không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Xét thấy, việc cấp dưỡng cho con là nghĩa vụ của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, chị T và anh B mỗi người đều có nghĩa vụ trực tiếp nuôi một người con chung nên việc chị T yêu cầu không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với người còn lại là phù hợp cần được chấp nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ người khác và người khác nợ lại: Chị T xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét trong vụ án.

[5] Về án phí sơ thẩm: Chị Lê Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 116 và 117 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Lê Thị T được ly hôn với anh Phan Thái B.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Phan Văn Kiệt, sinh ngày 05/11/2006 cho chị Lê Thị T và giao cháu Phan Thúy Kiều, sinh ngày 08/9/2008 cho anh Phan Thái B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi đủ 18 tuổi. Chị Lê Thị T và anh Phan Thái B không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị Lê Thị T và anh Phan Thái B không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí sơ thẩm: Chị Lê Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình, chị đã dự nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí tại biên lai số 0008962 ngày 04 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, được chuyển thu đối trừ, chị Lê Thị T không phải nộp tiếp.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Chị Lê Thị T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Phan Thái B có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2019/HNGĐ-ST ngày 26/02/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:34/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về