Bản án 339/2020/HS-ST ngày 31/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 339/2020/HS-ST NGÀY 31/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 7 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 311/2020/TLST- HS ngày 02 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 461/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Xuân T. Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 17 tháng 6 năm 1999. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Khối Trung Mỹ, phường Lê Mao, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Trình độ văn hoá: Lớp 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Xuân Phương, sinh năm 1973 và con bà: Phạm Thị Lan, sinh năm 1977; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/5/2020 đến nay. Có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Duy Tiệp, sinh năm 1992. Trú tại: khối 6B phường Cửa Nam, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 13/5/2020 Nguyễn Xuân T đi xe máy mang biển số 37 B2-837.89 ra khu vực bến xe thành phố V, tỉnh N tìm mua ma túy thuốc lắc để sử dụng. Tại đó Nguyễn Xuân T gặp một người đàn ông làm nghề xe lai (T không biết tên, tuổi, địa chỉ) mua của người này 02 viên ma túy dạng thuốc lắc với giá 500.000 đồng để sử dụng. Sau khi mua được ma túy Nguyễn Xuân T cầm ở tay và đi xe máy mang BKS 37B2-837.89 về đến trước số nhà 74 đường N, thuộc khối T, phường L, thành phố V, tỉnh N thì bị Tổ công tác Công an phường T, thành phố V, tỉnh N kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ của Nguyễn Xuân T 01 gói nhỏ bên trong có 02 viên nén màu hồng nhạt hình dạng không xác định Nguyễn Xuân T khai nhận là thuốc lắc cất dấu để sử dụng.

Ngày 14/5/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố V tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và ra quyết định trưng cầu giám định. Tại Kết luận giám định số 651/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 18 tháng 5 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu viên nén màu hồng nhạt hình dạng không xác định thu giữ của Nguyễn Xuân T gửi tới giám định là ma túy (MDMA). Số viên nén màu hồng nhạt hình dạng không xác định thu giữ của Nguyễn Xuân T có khối lượng là 0,820 gam (không phẩy tám trăm hai mươi gam).

Vật chứng thu giữ của Nguyễn Xuân T: 02 viên ma túy (MDMA) có khối lượng là 0, 820 gam, sau khi lấy mẫu đi giám định thì số ma túy còn lại 0,410 gam; 01 (một) chiếc xe máy YAMAHA Sirius, Biểm số 37 B2 - 837.89; 01 (một) điện thoại di động Iphone 6, vỏ màu trắng và 01 điện thoại Nokia 1202, vỏ màu đen.

Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh xác định 01 (một) chiếc xe máy YAMAHA Sirius, Biểm số 37 B2 - 837.89 mang tên sở hữu Nguyễn Duy T, sinh năm 1992, khối 6B phường C, thành phố V, tỉnh N, T cho T mượn xe máy để sử dụng nhưng không biết T sử dụng để đi mua ma túy. Anh T đã có đầy đủ lời khai và đơn đề nghị xin được nhận lại tài sản của mình.

Cáo trạng số 353/CT-VKSTPV ngày 30/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh truy tố để xét xử Nguyễn Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh phát biểu quan điểm về vụ án, giữ nguyên tội danh đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Nguyễn Xuân T từ 15 (Mười lăm) tháng tù đến 18 (Mười tám) tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về xử lý vật chứng: áp dụng điều 106 BLTTHS, điều 47 Bộ luật hình sự tịch thu tiêu huỷ số ma túy đã thu giữ của bị cáo; Trả lại 01 (một) điện thoại di động Iphone 6, vỏ màu trắng và 01 điện thoại Nokia vỏ màu đen cho bị cáo; Trả lại 01 (một) chiếc xe máy YAMAHA Sirius, Biểm số 37 B2 - 837.89 mang cho anh Nguyễn Duy Tiệp; Áp dụng điều 136 BLTTHS, điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định buộc bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí HSST.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Xuân T đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi của bị cáo: Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Xuân T thừa nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 20 giờ 55 phút, ngày 13/5/2020, tại khu vực đường Ngư Hải, thuộc phường Lê Mao, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An Nguyễn Xuân T có hành vi tàng trữ trái phép 02 viên ma túy (MDMA) có khối lượng 0,820 gam (Không phẩy tám trăm hai mươi gam) nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Vì vậy Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi của bị cáo Nguyễn Xuân T phạm vào loại tội nghiêm trọng, hành vi nguy hiểm cho xã hội, vi phạm quy định về quản lý của Nhà nước về ma túy. Ma túy là chất gây nghiện độc hại và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi cất dấu ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng do thiếu bản lĩnh, không làm chủ được bản thân nên đã sa vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét tình tiết giảm nhẹ thấy rằng trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo có ông nôi là thương binh nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy khi quyết định hình phạt nên xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như mức đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, cần chấp nhận.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Nguyễn Xuân T lao động tự do thu nhập không ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[5] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo do bị cáo không biết lai lịch, địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra xử lý.

[6]. Về xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ của bị cáo là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. 01 (một) điện thoại di động Iphone 6, vỏ màu trắng và 01 điện thoại Nokia 1202, vỏ màu đen của bị cáo do không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo; 01 (một) chiếc xe máy YAMAHA Sirius, Biểm số 37 B2 - 837.89 thuộc sở hữu của anh Nguyễn Duy T. Anh T cho T mượn không biết T sử dụng xe máy đi mua ma túy nên cần trả lại xe máy cho anh Tiệp.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 13/5/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư niêm phong dán kín, trong chứa ma túy (MDMA), ghi thu giữ vật chứng của Nguyễn Xuân T.

Trả lại 01 (một) điện thoại di động Iphone 6, vỏ màu trắng và 01 điện thoại Nokia 1202, vỏ màu đen cho Nguyễn Xuân T.

Trả lại 01 (một) chiếc xe máy YAMAHA Sirius, Biển số 37 B2 - 83789 cho anh Nguyễn Duy Tiệp.

(Vật chứng trên hiện có tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo phiếu nhập kho vật chứng số NK 0391 ngày 07/7/2020).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Xuân T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo Nguyễn Xuân T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 339/2020/HS-ST ngày 31/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:339/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về