Bản án 332/2020/HNGĐ-ST ngày 10/06/2020 về xin ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 332/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/06/2020 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 10 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 856/2019/hngđ - ST, ngày 12 tháng 12 năm 2019, vò việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình”. Theo  quyết định đưa ra xét xử số 12/2020/QĐXX – TA ngày 25 tháng 5 năm 2020, giữa:

Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Ngọc N – SN 1975 (có mặt) HKTT: số A, phường M, quận H, thành phố H.

Bị đơn: Anh Cao Văn L – SN 1963 (có mặt) HKTT và trú tại: số A, phường M, quận H, thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo tại tòa án, nguyên đơn chị Vũ Thị Ngọc N trình bày: Chị kết hôn với anh Cao Văn L có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phù Ninh, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây (Cũ), nay là thành phố Hà Nội, anh chị lấy nhau do tự nguyện. Sau c­ưới vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, hay sảy ra cãi cọ nhau, đã được hai bên gia đình khuyên giải nhưng tình hình không cải thiện được, vợ chồng đã sống ly thân hơn một năm nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, nên xin được ly hôn với anh L.

Về con chung: vợ chồng có 03 con chung là: Cao Ngọc Lâm – SN 1997; Cao Ngọc Sơn và Cao Ngọc Sơn Hà cùng sinh ngày 20/10/2002. Sau ly hôn chị đồng ý để anh L nuôi 02 con chung là Cao Ngọc Sơn và Cao Ngọc Sơn Hà.

Về tài sản chung, vay nợ chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu tòa giải quyết Bị đơn: anh Cao Văn L xác nhận vò ngày tháng kết hôn, có đăng ký kết hôn, lấy nhau do tự nguyện như chị N khai là đúng, vò  nguyên nhân mâu thuẫn là do chị N vay tiòn của nhiòu người để đầu tư và ăn chơi, nhà anh đã nhiòu lần phải trả nợ thay, từ đó vợ chồng hay sảy ra mâu thuẫn vợ chồng đã ly thân được hơn một năm nay. Nay chị N xin ly hôn với anh, anh xét thấy vẫn còn tình cảm với chị N và các con chưa trưởng thành, nên anh chưa đồng ý ly hôn.

1 Về con chung: vợ chồng có 03 con chung như chị N khai là đúng, nếu phải ly hôn anh xin nuôi 02 con chung là Cao Ngọc S và Cao Ngọc Sơn Ha và không yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại phiên toà, chị Vũ Thị Ngọc N, anh Cao Văn L vẫn giữ nguyên quan điểm.

Đại diện Viên kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Qúa trình giải quyết vụ án, kkể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử , việc chấp hành của những người tham gia tố tụng dân sự đã chấp hành đúng việc,tuân theo pháp luật tố tụng dân sự. Vò nội dung, xét thấy mâu thuẫn giữa chị N, anh L đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được. Mục đớch hôn nhân không đạt được, đò nghị xét xử theo hướng chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N, vò con chung giao 02 con chung cho anh L chăm sóc nuôi dưỡng. Vò tài sản chung tự thỏa thuận.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, xét thấy:

Về tố tụng: anh Cao Văn L là bị đơn trong vụ án, hiện đang cư trú tại phường Mộ Lao, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Vì vậy, Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội thụ lý và giải quyết vụ án là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều  35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: chị Vũ Thị Ngọc N kết hôn với anh Cao Văn L cã đăng ký kết hôn ngày 11/01/1997 t¹i UBND xã Phù Ninh, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây (Cũ), nay là thành phố Hà Nội, anh chị lấy nhau do tự nguyện là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm vò kinh tế và tình cảm, vợ chồng đã sống ly thân từ hơn một năm nay. Qua xác minh tại địa phương nơi anh L, chị N sinh sống cung cấp: anh L, chị N có mâu thuẫn, hiện chị N không còn ở chung với anh L, phù hợp với lời khai của anh L, chị N. Nay chị N xét thấy tình cảm không còn, nên kiên quyết xin ly hôn với anh L, anh L chưa muốn ly hôn. Xét thấy: mâu thuẫn giữa chị N và anh L phát sinh từ năm 2017 và ly thân từ hơn một năm nay, khả năng đoàn tụ không còn nên xử cho chị N được ly hôn với anh L là phù hợp.

Về con chung: chị N, anh L xác nhận vợ chồng có 03 con chung là Cao Ngọc Lâm – SN 1997; Cao Ngọc Sơn và Cao Ngọc Sơn Hà cùng sinh ngày 20/10/2002. Xét thấy, hai con chung là Cao Ngọc Sơn và Cao Ngọc Sơn Hà hiện đang ở với anh L, anh L xin được tiếp tục nuôi dưỡng và theo nguyện vọng của Cao Ngọc Sơn và Cao Ngọc Sơn Hà là được ở với bố, nên việc giao hai con chung là Cao Ngọc Sơn và Cao Ngọc Sơn Hà cho anh L nuôi dưỡng là phù hợp Anh L không yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con nên Tòa không xét.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa giải quyết.

Chị Vũ Thị Ngọc N phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật. Các đương sự có quyòn kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

Áp dụng:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều  39;

khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều  273; Điều 278 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Điều 51; 53; 54; 56; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 - Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định vò mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Toà án và danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thị Ngọc N đối với anh Cao Văn L. Chị Vũ Thị Ngọc N được ly hôn với anh Cao Văn L.

2. Về con chung: chị N, anh L xác nhận vợ chồng có 03 con chung là Cao Ngọc Lâm – SN 1997; Cao Ngọc Sơn và Cao Ngọc Sơn Hà cùng sinh ngày 20/10/2002. Sau ly hôn Giao con chung là Cao Ngọc Sơn và Cao Ngọc Sơn Hà cùng sinh ngày 20/10/2002 cho anh Cao Văn L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Ghi nhận việc anh L không yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con cho đến khi có đò nghị mới. Chị N được quyòn đi lại chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.

3. Về tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu tòa giải quyết.

4. Chị Vũ Thị Ngọc N phải nộp 300.000 đồng ¸án phí ly hôn sơ thẩm (đã nộp tại biên lai nộp tiền tạm ứng án phí số 0008525 ngày 12/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông).

Án xử công khai sơ thẩm, các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 332/2020/HNGĐ-ST ngày 10/06/2020 về xin ly hôn

Số hiệu:332/2020/HNGĐ-ST 
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về