Bản án 38/2020/HNGĐ-ST ngày 12/08/2020 về ly hôn, tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 38/2020/HNGĐ-ST NGÀY 12/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 235/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 7 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn Đ, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang; vắng mặt có đơn.

- Bị đơn: Ông Trần Văn D, sinh năm 1976; địa chỉ thường trú: Thôn K, xã V, huyện K, tỉnh Hòa Bình; tạm trú: Số nhà A, tổ I, khu phố B, phường H, thị xã T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt có đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Hoàng Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Hoàng Thị T và ông Trần Văn D chung sống với nhau vào năm 2011 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện K, tỉnh Hòa Bình theo giấy chứng nhận kết hôn số 28 ngày 08-7-2011. Trong cuộc sống thường xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, ông D sống không trách nhiệm với gia đình. Bà T đã cố gắng hàn gắn nhưng vợ chồng không cải thiện được và hiện tại vợ chồng đã sống ly thân. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông Trần Văn D.

Về con chung: Bà T và ông D có 01 con chung là Trần Văn G, sinh ngày 10-6-2012. Khi ly hôn, bà T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 Bị đơn ông Trần Văn D trình bày: Thống nhất theo phần trình bày của bà T về thời gian chung sống, kết hôn và con chung. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cải vã, không tôn trọng nhau. Vợ chồng đã cố hàn gắn nhưng không được. Nhận thấy mâu thuẫn giữa hai bên không thể giải quyết được, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông D đồng ý ly hôn với bà T. Về con chung, đồng ý giao con chung cho bà T nuôi dưỡng, ông D không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, tự thỏa thuận. Về nợ chung, không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông D có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt ông D.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Đối với việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng các đương sự đã thực hiện đúng quy định. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu và kiến nghị để khắc phục vi phạm tố tụng.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn bà Hoàng Thị T và bị đơn ông Trần Văn D có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử xử tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Hoàng Thị T và ông Trần Văn D chung sống với nhau vào năm 2011 và có đăng ký kết hôn tại xã Vĩnh Tiến, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình theo giấy chứng nhận kết hôn số 28 ngày 08-7-2011, là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy, bà T và ông D thống nhất thừa nhận vợ chồng có những mâu thuẫn không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông D mâu thuẫn trầm trọng nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông D là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Điều Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Bà T và ông D có 01 con chung là Trần Văn G, sinh ngày 10-6-2012. Bà T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, hiện tại con chung đang sống cùng bà T, bà T chăm sóc con chung đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho con chung, ông D đồng ý để bà T nuôi dưỡng con chung nên bà T yêu cầu nuôi dưỡng con chung là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.

[7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Hoàng Thị T phải chịu theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 269, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự:

Áp dụng:

- Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:

- Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị T đối với ông Trần Văn D.

1.1. Về hôn nhân: Bà Hoàng Thị T được ly hôn với ông Trần Văn D.

1.2. Về con chung: Giao con chung tên Trần Văn G, sinh ngày 10-6-2012 cho bà Hoàng Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Về cấp dưỡng nuôi con chung, các đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

Bà Hoàng Thị T và ông Trần Văn D đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Ông D được quyền đi lại thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

1.3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Hoàng Thị T phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ vào tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0038191 ngày 01-7-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

3. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

849
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2020/HNGĐ-ST ngày 12/08/2020 về ly hôn, tranh chấp ly hôn

Số hiệu:38/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:12/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về