TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG KHÊ, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 33/2019/HS-ST NGÀY 27/12/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, MUA BÁN TRÁI PHÉP VẬT LIỆU NỔ
Ngày 27 tháng 12 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 33/2019/TLST-HS ngày 02/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2019/QĐXXST-HS ngày 16/12/2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn C; sinh ngày 13/8/1981; nơi sinh: Xã Đ, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Xóm X, xã Đ, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình N (đã chết) và bà Nguyễn Thị V; có vợ là Nguyễn Thị N và 02 con, đứa lớn sinh 2016, nhỏ sinh 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 13/8/2019 đến ngày 19/8/2019; hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt..
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Chị Nguyễn Thị N; sinh năm 1985; địa chỉ: Xóm X, xã Đ, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh (vợ bị cáo); có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Thanh Đ, sinh năm 1978; anh Phạm Quang H, sinh năm 1981; đều địa chỉ: Xóm Y, xã Đ, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; đều vắng mặt.
- Người chứng kiến: Anh Đinh Văn P, sinh năm 1964; địa chỉ: Xóm X, xã Đ, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 08 giờ 30 phút ngày 13/8/2019, Công an huyện Hương Khê phối hợp với lực lượng chức năng tuần tra, kiểm soát trên địa bàn xã Đ, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, phát hiện Nguyễn Thanh Đ và Phạm Quang H đều trú tại xóm Y, xã Đ, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh đang có hành vi vận chuyển 01 thỏi thuốc nổ hình trụ, màu nâu, kích thước dài 22cm, đường kích 3cm, khối lượng 0,2kg. Nguyễn Thanh Đ khai nhận thỏi thuốc nổ trên mua của Nguyễn Văn C, trú tại xóm X, xã Đ, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh vào sáng ngày 13/8/2019 với giá 90.000đ.
Công an huyện Hương Khê đã triệu tập Nguyễn Văn C để đấu tranh làm rõ, đồng thời tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn C, thu giữ trong ngăn mát tủ lạnh 32 thỏi thuốc nổ màu nâu, mỗi thỏi dài 22cm, đường kính 3cm, có tổng khối lượng 6,4kg.
Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa Nguyễn Văn C khai nhận: Khoảng đầu tháng 7/2019, trong quá trình đi mua gỗ trên địa bàn huyện T, tỉnh Q, Nguyễn Văn C vào một quán nước ven đường gần khu vực Ga T (thuộc địa phận huyện T, tỉnh Q) uống nước. Một lúc sau, có 03 người đàn ông đi vào quán nước nói chuyện với nhau, Nguyễn Văn C nghe một trong ba người nói hiện tại đang có một ít thuốc nổ, muốn bán để lấy tiền uống bia. Nghe vậy, Nguyễn Văn C sang hỏi người đó có bao nhiêu thuốc nổ và giá cả như nào. Người đó nói “có khoảng 6kg thuốc nổ, nếu anh mua thì bán rẻ cho”, C bảo người đó đưa thuốc nổ cho mình xem. Người đó đi ra ngoài lấy 01 bì tải bên trong đựng thuốc nổ đưa vào góc quán mở ra cho C xem. Nguyễn Văn C thấy bên trong bì tải có 03 túi nilon, bên trong mỗi túi đựng 10 thỏi màu nâu hình trụ kèm theo 03 thỏi để riêng. Người đó nói mỗi thỏi có giá 20.000đ, tổng cổng 33 thỏi có giá 660.000đ. C đồng ý mua và trả tiền cho người này, sau đó đưa thuốc nổ về nhà cất dấu trong tủ lạnh ở phòng ngủ gia đình.
Vào khoảng giữa tháng 7/2019, quá trình làm việc với nhau, qua trò chuyện Nguyễn Thanh Đ hỏi Nguyễn Văn C có thuốc nổ không bán cho ít về đánh cá, C trả lời đang có một ít thuốc nổ cất ở nhà khi nào cần thì đến lấy. Chiều 12/8/2019, Đ gọi điện cho C hỏi mua thuốc nổ, do chưa muốn bán cho Đ nên C bảo chưa có, khi nào có sẽ gọi điện cho Đ. Sáng ngày 13/8/2019, Đ tiếp tục gọi điện hỏi C có thuốc nổ chưa, C trả lời có rồi đến mà lấy. Khoảng 8 giờ sáng cùng ngày, Đ cùng với Phạm Văn H đến nhà C để mua thuốc nổ. Khi đến, Đ đi vào gặp C, còn H đứng ngoài sân, cách C và Đ khoảng 5m. Do đã trao đổi với C từ trước về việc mua thuốc nổ, nên C nói lấy 90.000đ, rồi đưa cho Đ 01 túi nilon màu đen. Sau đó, Đ và H ra về.
Vật chứng thu giữ: Thu của Nguyễn Thanh Đ: 01 thỏi hình trụ, ngoài bọc giấy sáp màu nâu, dài 22cm, đường kính 3cm, bên trong chứa chất bột màu xám. Thu của Nguyễn Văn C: 32 thỏi hình trụ, ngoài bọc giấy sáp màu nâu, dài 22cm, đường kính 3cm, bên trong chứa chất bột màu nâu; 01 điện thoại Nokia, màu đen, đã qua sử dụng; 90.000VNĐ.
Tại Kết luận giám định số 183/GĐVLN-PC09 ngày 16/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh, kết luận về đối tượng giám định: Chất bột màu nâu xám chứa trong 01 thỏi hình trụ, ngoài bọc giấy sáp màu nâu, dài 22cm, có đường kính 3cm (Ký hiệu mẫu A1) gửi giám định là thuộc nổ, loại thuộc Công nghiệp Amonit, còn sử dụng được, có khối lượng là 0,2kg. Chất bột màu nâu xám chứa trong 32 thỏi hình trụ, ngoài bọc giấy sáp màu nâu, mỗi thỏi dài 22cm, có đường kính 3cm (Ký hiệu mẫu A2) gửi giám định là thuốc nổ, loại thuốc nổ Công nghiệp Amonit, còn sửa dụng được, có khối lượng là 6,4kg.
Tại Cáo trạng số 73/CT-VKS-P1 ngày 27/11/2019 của Viện trưởng VKSND tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội “Tàng trữ, mua bán trái phép vật liệu nổ” theo quy định tại khoản 1 Điều 305 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Nguyễn Văn C khai nhận hành vi của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng của bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo có điều kiện được cải tạo, giáo dục tại địa phương.
Đại diện Viện kiểm sát huyện Hương Khê tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội Tàng trữ, mua bán trái phép vật liệu nổ. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 305; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; đề nghị xử lý vật chứng và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo tự nguyện khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa là phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 8 giờ ngày 13/8/2019, Nguyễn Thanh Đ đến nhà Nguyễn Văn C tại xóm X, xã Đ, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh mua 01 thỏi thuốc nổ 0,2kg về để đánh cá với giá 90.000đ. Sau khi mua xong, đang trên đường về nhà thì Nguyễn Văn Đ bị lực lương chức năng phát hiện bắt giữ. Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hương Khê thực hiện lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở Nguyễn Văn C, thu giữ 32 thỏi thuốc nổ có khối lượng 6,4kg. Nguyễn Văn C khai nhận số thuốc nổ trên mua của một người đàn ông không quen biết ở tỉnh Q về cất dấu trong nhà để bán lại kiếm lời.
[3] Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn C đã phạm vào tội Tàng trữ, mua bán trái phép vật liệu nổ theo quy định tại khoản 1 Điều 305 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng số 73/CT-VKS-P1 của Viện trưởng VKSND tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Nguyễn Văn C là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho x.ã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý vật liệu nổ của Nhà nước, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần phải xử lý nghiêm mới đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.
[5] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn và thể hiện thái độ ăn năn hối cải, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Đình N tham gia kháng chiến chống Mỹ và bản thân bị cáo bị nhiễm chất độc màu da cam, do đó được hưởng các tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, trình độ học vấn thấp nhận thức hạn chế, vi phạm pháp luật lần đầu, bị nhiễm chất độc màu da cam, có nơi cư trú rõ ràng… do đó, không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội, mà cần áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để bị cáo có điều kiện cải tạo, giáo dục tại địa phương là phù hợp.
[7] Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:
Số tiền 90.000đ và 01 điện thoại Nokia màu đen thu giữ của bị cáo, hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện đang quản lý là tiền do phạm tội mà có và công cụ, phương tiện phạm tội, do đó cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước theo điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự. 6,55kg thuốc nổ dạng thỏi, hình trụ màu nâu (đã trừ mẫu giám định), hiện Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh đang quản lý, giao cho Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh xử lý theo thẩm quyền quy định tại a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Quy chế tạm thời số 110/LN-QCPH ngày 18/01/2019 của Liên ngành Công an tỉnh, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh.
[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, đề nghị về hình phạt, biện pháp đường lối xét xử, xử lý vật chứng, án phí là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Các đối tượng liên quan đến vụ án: Nguyễn Thanh Đ là người mua thuốc nổ của Nguyễn Văn C (khối lượng 0,2kg) chưa đủ khối lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự, Công an huyện Hương Khê đã xử phạt hành chính đối với Đ; Nguyễn Quang H là người đi cùng Đ đến nhà C mua thuốc nổ, tuy nhiên quá trình trao đổi, mua bán thuốc nổ giữa Đ và C, H không biết, Đ cũng không nói với H việc mua bán thuốc nổ, nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ xử lý đối với H; Đối với người bán thuốc nổ cho Nguyễn Văn C ở tỉnh Q, do C khai không biết thông tin đầy đủ về họ tên, địa chỉ, số điện thoại của người này, nên Cơ quan điều tra không đủ cơ sở xác minh làm rõ. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
[10] Bị cáo là đối tượng trợ cấp chất độc màu da cam, thuộc trường hợp người khuyết tật, do đó miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 305; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 1 Điều 14; khoản 6 Điều 15 của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội Tàng trữ, mua bán trái phép vật liệu nổ.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Văn C cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:
Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 90.000đ và 01 điện thoại di động Nokia màu đen (Theo Biên bản nhận nhận vật chứng ngày 29/11/2019 giữa Cơ quan ANĐT Công an tỉnh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hương Khê).
Giao cho Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Tĩnh xử lý theo thẩm quyền 0,19kg thuốc nổ dạng thỏi hình trụ, màu nâu đựng trong 01 hộp giấy, ký hiệu A1 và 6,36kg thuốc nổ dạng thỏi hình trụ, màu nâu đựng trong 01 hộp giấy, ký hiệu A2 đều đã được niêm phong (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/11/2019 giữa Cơ quan ANĐT Công an tỉnh và Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Tĩnh).
4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện của bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 33/2019/HS-ST ngày 27/12/2019 về tội tàng trữ, mua bán trái phép vật liệu nổ
Số hiệu: | 33/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hương Khê - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về