TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 33/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Đặng Xuân T, sinh năm 1986 tại xã Đ, thành phố B, tỉnh Thái Bình. Nơi cư trú: Xóm 1, xã Đ, thành phố B, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Danh T và bà Vũ Thị P; có vợ Nguyễn Phan Ngọc D đã ly hôn và 01 con; tiền án: Bản án số 108/2017/HSST ngày 13/7/2017 Toà án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 32/2019/QĐ-TA ngày 05/4/2019 của Toà án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình với thời gian 15 tháng; bị bắt, tạm giữ ngày 10 tháng 8 năm 2019; có mặt.
- Người làm chứng: Anh Nguyễn Ngọc D; Anh Phạm Viết T; Anh Trần Thành T; Anh Nguyễn Đình S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 03 giờ ngày 10 tháng 8 năm 2019, Công an xã T, huyện L, tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tuần tra phát hiện 05 thanh niên đi từ Quốc lộ 10 vào đường 21B có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. Qua kiểm tra cả 05 người đều không có giấy tờ tuỳ thân, tổ công tác phát hiện và thu giữ trong người Đặng Xuân T 01 gói nilon chứa chất bột màu trắng (T khai là gói ma tuý vừa nhặt được). Các đối tượng còn lại là Phạm Viết T1, sinh năm 1976 trú tại: Xã L, thành phố Thái B, tỉnh Thái Bình; Nguyễn Đình S, sinh năm 1991 trú tại: Tổ B, phường K, đường N, thành phố B, tỉnh Thái Bình; Nguyễn Ngọc D, sinh năm 1989 trú tại: Xã C, thành phố B, tỉnh Thái Bình; Trần Thành T2, sinh năm 1987 trú tại: Khu chung cư phường T, thành phố B, tỉnh Thái Bình không phát hiện và thu giữ gì. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ, niêm phong gói ma tuý của T và đưa các đối tượng về Uỷ ban nhân xã T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang sau đó bàn giao cho Công an huyện L giải quyết theo thẩm quyền. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đặng Xuân T không thu giữ gì.
Bản kết luận giám định số 794/GĐKTHS ngày 12/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột màu trắng trong 01 gói nilon màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma tuý. Loại ma tuý: Heroine. Trọng lượng (khối lượng) mẫu: 0,189 gam.
Kết quả điều tra xác định khoảng 01 giờ 15 phút ngày 10/8/2019 Đặng Công T cùng các đối tượng T, S, D, T1 sau khi trốn trại cai nghiện số 6 thành phố B đã đi theo Quốc lộ 10 về Nam Định. Khi đến khu vực cầu Đ thì S nhặt được 01 gói nilon màu trắng, mở ra cả nhóm cùng xem thấy bên trong có chứa chất bột màu trắng, T và S nếm thử thấy có vị đắng nên xác định đó là Heroine. T cầm và cất giữ gói Heroine trong người với mục đích để sử dụng cho bản thân rồi cả nhóm tiếp tục đi đến khu vực xã T thì bị kiểm tra bắt giữ. Đối với D, T1, T2 và S biết việc T cất giữ gói Heroine nhưng không có ý thức sẽ sử dụng chung cùng với T nên Cơ quan điều tra xác định không đồng phạm với T.
Bản cáo trạng số 32/CT-VKS-ML ngày 07 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Đặng Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; xác định bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, bị cáo Đặng Xuân T khai nhận việc cất giữ ma tuý trong người nhằm để sử dụng thoả mãn nhu cầu cá nhân là vi phạm pháp luật; bản kết luận giám định đối với gói ma tuý bị Công an thu giữ là đúng; Viện kiểm sát truy tố là không oan. Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đặng Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; căn cứ áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù; căn cứ áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng đã thu giữ. Bị cáo không bào chữa, có lời nói sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Lộc cũng như Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc cũng như Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy lời khai bị cáo tại phiên toà phù hợp với các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; bản kết luận giám định chất ma tuý; lời khai người làm chứng cũng như toàn bộ lời khai bị cáo tại cơ quan điều tra. Từ các tình tiết chứng cứ này đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 03 giờ ngày 10 tháng 8 năm 2019, tại khu vực xã T, huyện L, tỉnh Nam Định Đặng Xuân T đang cất giữ trong người 0,189 gam Heroine với mục đích để sử dụng thì bị Công an xã T, huyện L, tỉnh Nam Định bắt quả tang. Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo Đặng Xuân T là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã xâm phạm quy định về quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Đây là khách thể được pháp luật nghiêm cấm các hành vi tàng trữ, vận chuyển và mua bán trái phép. Ma tuý hiện đang là hiểm hoạ của nhân loại bị xã hội lên án và loại trừ, bởi nó là nguyên nhân dẫn đến sự tha hoá về đạo đức, suy thoái về giống nòi, là nguy cơ tiềm ẩn làm phát sinh ra các loại tội phạm khác. Bản thân bị cáo là người đã trưởng thành, bình thường về thể chất và tâm thần, nhận thức rõ được tác hại của ma tuý bị pháp luật nghiêm cấm nhưng do sống buông thả, không chịu rèn luyện tu dưỡng dẫn đến nghiện hút để rồi phải lệ thuộc vào ma tuý. Bị cáo mặc dù đã được gia đình và chính quyền địa phương nhắc nhở, giáo dục nhưng không giác ngộ nên đã bị Toà án áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tuy nhiên, bị cáo không có ý thức từ bỏ ma tuý nên hậu quả tất yếu là dấn thân vào con đường phạm tội. Năm 2017 bị cáo đã bị Toà án kết án về tội trộm cắp tài sản chưa được xoá án tích nên lần phạm tội này của bị cáo là thuộc trường hợp tái phạm. Vì vậy bị cáo sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật tương xứng với hành vi tái phạm của mình.
[4] Về trách nhiệm hình sự: Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, khách thể được pháp luật Nhà nước bảo hộ bị xâm phạm, động cơ mục đích phạm tội của bị cáo, hậu quả nguy hại cho xã hội và lịch sử bản thân của bị cáo thì việc cần thiết phải áp dụng biện pháp cách ly xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục là thoả đáng; đồng thời cũng mới đáp ứng được yêu cầu răn đe, giáo dục phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo ngoài tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự thì quá trình khai báo bị cáo đã thành khẩn, ăn năn hối cải đó là tình tiết được Hội đồng xét xử xem xét vận dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước. Xét mức án Viện kiểm sát đề nghị áp dụng để cải tạo bị cáo là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị này và sẽ cân nhắc để ấn định một mức án cụ thể tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời cũng đủ để cải tạo bị cáo hoàn lương trở về hoà nhập với cuộc sống cộng đồng làm người có ích cho gia đình và xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bản thân bị cáo là người mắc tệ nạn nghiện ma tuý; mục đích tàng trữ ma tuý chỉ để sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu bản thân, không có mục đích kiếm lời nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng của vụ án: Số ma tuý sau khi được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận giám định hoàn trả là Heroine bị Nhà nước nghiêm cấm nên cần phải tịch thu để tiêu huỷ.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;
Tuyên bố bị cáo Đặng Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt bị cáo T 24 (hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ, ngày 10 tháng 8 năm 2019.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma tuý vật chứng của vụ án đã được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn lại sau kết luận giám định và niêm phong số 794/GĐKTHS theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 08 tháng 11 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 33/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 33/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Lộc - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về