Bản án 33/2017/HNGĐ-ST ngày 14/09/2017 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN K, T.P HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 33/2017/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2017 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 124/2017/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 6 năm 2017 về việc "Ly hôn", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 486/2017/QĐST-HNGĐ ngày 15/8/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 537/2017/QĐST-HNGĐ ngày 31/8/2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1996; cư trú tại: Phường A, quận D, Hải Phòng, có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H1, sinh năm 1995, cư trú tại: Phường V, quận K, Hải Phòng, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 29/5/2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn Vũ Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn H1 kết hôn với nhau tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) phường V, quận K, Hải Phòng, ngày 02/6/2014. Sau khi kết hôn vợ, chồng chung sống với nhau tại nhà của bố mẹ anh H1 tại tổ Đẩu Sơn 4, phường V, quận K, Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ, chồng hòa thuận đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn do anh H1 không tu trí làm ăn, dẫn đến vợ chồng thường xuyên xô sát, cãi nhau. Gia đình và người thân đã nhiều lần khuyên giải nhưng quan hệ vợ chồng vẫn không được hòa thuận mà mâu thuẫn vẫn xảy ra. Do mâu thuẫn căng thẳng từ tháng 10 năm 2016 chị H đã bỏ về ở nhà mẹ đẻ từ đó đến nay vợ chồng sống ly thân và không quan tâm đến nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị Vũ Thị H đề nghị

Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn ông Nguyễn Văn H1.

Về con chung: Vợ, chồng có 01 (một) con chung là Nguyễn Hoàng Gia H, sinh ngày 24/9/2014. Từ khi vợ chồng sống ly thân anh H1 vẫn nuôi con chu đáo, khi ly hôn chị H đề nghị Tòa án giao con chung cho anh Nguyễn Văn H1 trực tiếp nuôi dưỡng, về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị H tự giao cho anh H1 không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị H trình bày vợ, chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án đã triệu tập anh Nguyễn Văn H1 nhiều lần, nhưng đều vắng mặt không có lý do, cho nên anh H1 không có lời khai.

Trong văn bản ngày 07/8/2017 bà Đỗ Thị T là mẹ chị H trình bày phù hợp với lời trình bày của bà Bùi Thị H là mẹ anh Nguyễn Văn H1 và Tổ trưởng tổ T, phường A, quận D xác nhận trong thời gian chung sống chị H và anh H1 thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, chị H đã về ở nhà mẹ đẻ chị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận xét:

1. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Vũ Thị H, cư trú tại: Phường A, quận D, Hải Phòng; Anh Nguyễn Văn H1, cư trú tại: Phường V, quận K, Hải Phòng. Vì vậy, vụ án tranh chấp về Hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

2. Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đến lần thứ hai mà anh H1 vẫn vắng mặt, cho nên Tòa án không tiến hành hòa giải được và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh H1 đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Vì vậy, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt anh Nguyễn Văn H1 theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

3. Xét về yêu cầu khởi kiện:

Chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Văn H1 kết hôn với nhau tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường V, quận K, Hải Phòng, ngày 02/6/2014, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống, vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên xô sát, cãi nhau. Vợ, chồng đã được hai bên gia đình khuyên giải, nhưng quan hệ vợ chồng không được hòa thuận mà mâu thuẫn vẫn xảy ra. Do mâu thuẫn căng thẳng chị H đã về ở nhà bố mẹ đẻ chị tại phường A, quận D, Hải Phòng từ tháng 10 năm 2016 đến nay vợ chồng ly thân và không quan tâm đến nhau. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Văn H1 làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung thực tế đã không tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn, nên yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thị H là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

- Về con chung: Chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Văn H1 có 01 (một) con chung là Nguyễn Hoàng Gia H, sinh ngày 24/9/2014. Từ khi vợ chồng sống ly thân anh H1 vẫn nuôi con chu đáo, khi ly hôn chị H đề nghị Tòa án giao con chung cho anh Nguyễn Văn H1 trực tiếp nuôi dưỡng, về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị H tự giao cho anh H1 không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, cần giao cho anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng con chung, về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị H tự giao cho anh H1 không yêu cầu Tòa án giải quyết là phù hợp với quy định tại Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về tài sản chung: Chị Vũ Thị H trình bày vợ, chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: chị Vũ Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 203; Điều 266; Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 19; khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Văn H1.

2. Về con chung:

2.1. Giao cho anh Nguyễn Văn H1 trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Hoàng Gia H, sinh ngày 24/9/2014 đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị Vũ Thị H tự giao cho anh Nguyễn Văn H1 hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Vũ Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Vũ Thị H phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai ký hiệu AA/2014 số 0003368 ngày 13/6/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận K, Hải Phòng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2017/HNGĐ-ST ngày 14/09/2017 về ly hôn

Số hiệu:33/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về