Bản án 32/2021/HNGĐ-ST ngày 29/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

 BẢN ÁN 32/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 532/2020/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2021/QĐS-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm: 1977 (có mặt); Địa chỉ: Tổ 17, ấp L, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

 Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1971 (vắng mặt);

Địa chỉ: Tổ 17, ấp L, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:

Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1995 được sự đồng ý của hai bên gia đình và có tổ chức lễ cưới, nhưng không đăng ký kết hôn. Đến năm 2007 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phước Hưng, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo Giấy chứng nhận kết hôn số 72-167, quyển số 01-2006 ngày 18-6-2007.

Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020, thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không còn hòa hợp, mâu thuẫn kéo dài dẫn đến thường xuyên gây gỗ, cãi nhau. Chị T và anh T đã sống ly thân từ đầu năm 2020 đến nay, trong thời gian sống ly thân có tìm cách để hàn gắn tình cảm nhưng không được mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Nay mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng không thể hàn gắn, chị T không còn tình cảm với anh T nên yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về quan hệ hôn nhân: Chị T yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về con chung: Có 03 người con chung là cháu Nguyễn Thị Bích H, sinh năm: 1997; Nguyễn Thị Bích N, sinh năm: 1998 và Nguyễn Thành L, sinh ngày 05-11-2007. Chị T yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thành L đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu Nguyễn Thị Bích H và Nguyễn Thị Bích N đã trưởng thành và phát triển bình thường nên không yêu cầu gì.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Theo kết quả xác minh, anh T đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 17, ấp L, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và hiện nay đang sinh sống tại địa phương.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vắng mặt không có lý do; chị T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa:

Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án:

Trong quá trình tố tụng nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận toàn bộ yêu cầu xin ly hôn của chị T đối với anh T. Giao con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng và ghi nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Theo đơn khởi kiện chị T yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con đối với anh T được xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh T tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Phước Hưng, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận kết hôn là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Theo chị T sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không còn hòa hợp, mâu thuẫn kéo dài nên đã tự sống ly thân, trong thời gian sống ly thân đã tìm cách hàn gắn tình cảm nhưng không được. Xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị T xin ly hôn với anh T. Trong qúa trình tố tụng anh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ nhiều lần để làm rõ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Việc anh T cố tình vắng mặt cho thấy không có thiện chí hòa giải đoàn tụ mà bỏ mặc cho mâu thuẫn đến đâu thì đến. Theo kết quả xác minh thì hiện nay chị T và anh T mỗi người ở một nơi không còn chung sống với nhau đúng như chị T trình bày. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng là có thật, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình thì yêu cầu xin ly hôn của chị T là có cơ sở chấp nhận.

[3.2] Về con chung: Chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Thành L, sinh ngày 05-11-2007 đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu L có nguyện vọng ở với mẹ và chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi con nên giao cho chị T nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp. Việc chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện nên ghi nhận. Đối với cháu Nguyễn Thị Bích H và Nguyễn Thị Bích N đã trưởng thành, phát triển bình thường và không yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết.

[3.3] Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

 [4] Về án phí sơ thẩm: Chị T là nguyên đơn nên phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật tố tụng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 228, 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với anh Nguyễn Văn T.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thành L, sinh ngày 05-11-2007 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi), anh Nguyễn Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu Nguyễn Thị Bích H, sinh năm: 1997 và cháu Nguyễn Thị Bích N, sinh năm: 1998 đã trưởng thành, phát triển bình thường nên không xem xét giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con, nếu họ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2020/0004408 ngày 24 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

3. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt, thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 32/2021/HNGĐ-ST ngày 29/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:32/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về