Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 184/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2020 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 07 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 39/2020/QĐST- HNGĐ ngày 23/12/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T; Sinh năm: 1993 Địa chỉ: Thôn V, xã V, huyện C, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt tại phiên tòa (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt);

2. Bị đơn: Anh Bùi Minh D; Sinh năm: 1996 Địa chỉ: Thôn B, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt tại phiên tòa (Lần thứ 2 không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 01/10/2020 và bản tự khai ngày 05/10/2020 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Bùi Minh D kết hôn tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 08/08/2017 tại Ủy ban nhân dân (Sau đây viết tắt là UBND) xã V, huyện C, tỉnh Tuyên Quang. Sau ngày cưới tình cảm vợ chồng hòa thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bản thân chị làm nghề trang điểm cô dâu nên có nhiều mối quan hệ làm ăn. Tuy nhiên anh D lại có tính ghen tuông vô cớ, thường xuyên chửi bới chị. Đến tháng 10/2018 thì anh D bỏ về quê ở Thanh Hóa và ly thân từ đó, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh D.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Bùi Yến N, sinh ngày 21/6/2019, hiện nay cháu đang ở với chị. Khi ly hôn chị đề nghị được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản: Chị T không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tòa án đã Tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và triệu tập anh Bùi Minh D để nộp bản tự khai nhưng anh D đều vắng mặt nên không có lời khai của anh D trong hồ sơ vụ án Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Về tố tụng: Tòa án đã xác định đúng quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của các đương sự trong vụ án. Từ giai đoạn thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cũng như các thành viên của Hội đồng xét xử (Sau đây viết tắt là HĐXX) và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (Sau đây viết tắt là BLTTDS). Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình còn bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS.

Về nội dụng vụ án: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình; Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Bùi Minh D; Về con chung: Giao cháu Bùi Yến N, sinh ngày 21/6/2019 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình có con chưa thành niên và trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự chưa thống nhất được các vấn đề tranh chấp trong vụ án nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng nhưng VKS được biết.

[2]. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự, nhưng anh D không có mặt nên tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho anh D theo khoản 3 Điều 210 BLTTDS.

[3]. Anh D đã được triệu tập hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng anh D đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 điều 207 BLTTDS.

[4]. Tại phiên tòa hôm nay, chị T vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh D đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 238. BLTTDS, Tòa án xét xử vắng mặt anh D và chị T.

[5]. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Bùi Minh D kết hôn tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 08/08/2017 tại UBND xã V, huyện C, tỉnh Tuyên Quang và không vi phạm các cấm của Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 Điều 28 BLTTDS. Sau ngày cưới tình cảm vợ chồng hòa thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên thường xuyên sảy ra cãi cọ, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Đến tháng 10/2018 thì anh D đã về Thanh Hóa và vợ chồng ly thân từ đó, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Việc này phù hợp với nội dung Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân mà Tòa án đã tiến hành thu thập tại địa phương. Nay chị T nhất quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh D, chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Bùi Minh D.

[6]. Về con cái: Chị Nguyễn Thị T và anh Bùi Minh D có một con chung là Bùi Yến N, sinh ngày 21/6/2019. Ly hôn, chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Xét thấy, cháu Yến N đang còn rất nhỏ, rất cần sự chăm sóc của người mẹ. Nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị T, giao cháu Yến N cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T.

[7] Về tài sản: Chị T không yêu cầu nên miễn xét.

[8] Về án phí: Chị T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 1 điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí và lệ phí Toà án.

Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Bùi Minh D.

Về con cái: Giao con chung là cháu Bùi Yến N, sinh ngày 21/6/2019 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T.

Anh D có quyền qua lại trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn nhưng được trừ vào số tiền chị T đã nộp tạm ứng án phí DSST là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành theo biên lai số AA/2018/0002883 ngày 05/10/2020, chị T đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt chị Nguyễn Thị T và anh Bùi Minh D. Chị T và anh D có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về