Bản án 32/2020/HS-ST ngày 30/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 32/2020/HS-ST NGÀY 30/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 06 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 06 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 06 năm 2020 đối với bị cáo:

1. K’ Sin Lin T; Tên gọi khác: K’ B; Sinh ngày 28/11/2001; tại: Lâm Đồng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kơ Ho; Giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 06/12; Nghề nghiệp: Làm nông; Hộ khẩu thường trú: Thôn 4, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; Nơi cư trú: Thôn 4, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Con ông: K’ Sửu; Con bà: Ka Thăm.Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo K’ Sin Lin T bị bắt tạm giữ từ ngày 09-03-2020, đến ngày 12/03/2020 chuyển sang tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện D. Có mặt;

2. K’ Ju Ra B; Tên gọi khác: không; Sinh ngày 04/10/2001 tại : Lâm Đồng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kơ Ho; Giới tính: nam; Tôn giáo: Tin Lành; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Làm nông; Hộ khẩu thường trú: Thôn 4, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; Nơi cư trú: Số nhà 14/4, thôn 4, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; Con ông: K’ B và Con bà: Ka T.Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo K’ Ju Ra B bị bắt tạm giam từ ngày 16-03-2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện D. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh K’ D, sinh năm 1996 Địa chỉ: thôn 4, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào sáng ngày 02/03/2020, K’ Sin Lin T và K’ Ju Ra B đến quán cà phê thuộc thôn 4, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng, thì gặp đối tượng tên N ở thị trấn D (chưa xác định nhân thân lai lịch) rủ B và T cùng sử dụng ma túy, sau khi sử dụng ma túy xong, K’ Ju Ra B và K’ Sin Lin T cùng rủ nhau góp tiền mỗi người 100.000đ mua ma túy của N để sử dụng. Sau khi đã mua được một gói nylon bên trong có chứa chất tinh bột màu trắng của N với số tiền 200.000đ, K’ Sin Lin T cất giữ một gói nylon (ma túy) trong túi quần đang mặc trên người, còn K’ Ju Ra B điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát 34K9- 8680 chở T cùng vào khu vực thôn 1, xã T, tìm nơi vắng người để sử dụng ma túy. Khi K’ Ju Ra B và K’ Sin Lin T đang điều khiển xe mô tô chở nhau đi trên đoạn đường đất thuộc thôn 1, xã T thì gặp lực lượng Công an đang làm nhiệm vụ tuần tra nên K’ Sin Lin T cầm theo ma túy bỏ chạy vào vườn cà phê nhà dân, còn K’ Ju Ra B bị bắt giữ và đưa về Công an xã T làm việc và được gia đình bảo lãnh về nhà.

Ngày 09/03/2020 K’ Sin Lin T đến Công an xã T đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của bản thân và đồng phạm nói trên. Đồng thời khai nhận, khi bỏ chạy vào vườn cà phê nhà ông K’ Dui ở thôn 1, xã T, K’ Sin Lin T đã vứt 01 gói nylon bên trong có chứa chất ma túy trong vườn cà phê để tiếp tục chạy thoát. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D đến địa điểm, tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ tang vật 01 gói nylon hàn kín bốn cạnh bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng là của K’ Sin Lin T vứt vào ngày 02/03/2020 để điều tra, xử lý theo quy định.

Trong quá trình điều tra, K’ Sin Lin T và K’ Ju Ra B khai nhận một gói ma túy nói trên là ma túy của T và B góp tiền để mua chung, mục đích mua ma túy về tàng trữ là để sử dụng cho bản thân, không có mục đích nào khác.

Tại cơ quan điều tra, K’ Sin Lin T và K’ Ju Ra B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại Kết luận giám định số: 579/GĐ-PC09 ngày 12/03/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng xác định: Mẫu tinh thể đựng trong một gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2099g (không phẩy hai không chín chín gam), loại Methamphetamine.

Theo mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ của K’ Sin Lin T và K’ Ju Ra B là 0,2099g (không phẩy hai không chín chín gam), loại Methamphetamine.

Về vật chứng thu giữ: Ngoài các vật chứng thu giữ, sau đó trưng cầu giám định nêu trên, Cơ quan điều tra còn thu giữ: 01(một) xe mô tô biển kiểm soát 34K9– 8680 nhãn hiệu LYSOHARA màu nâu số máy FMG200078924; số khung GO12LK078976, cùng giấy đăng ký xe và 01 (một) giấy Chứng minh nhân dân mang tên K’Sin Lin T. Ngày 03/06/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D ra quyết định xử lý vật chứng, giao trả phương tiện xe mô tô biển kiểm soát 34K9– 8680 cùng giấy đăng ký mô tô trên cho anh K’ Du là chủ sở hữu hợp pháp và trả lại 01 (một) giấy Chứng minh nhân dân mang tên K’Sin Lin T, cho bị cáo T.

Tại bản Cáo trạng số 37/Ctr-VKS ngày 10 tháng 06 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố: K’ Sin Lin T và K’ Ju Ra B về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên Tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Lâm Đồng giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo K’ Sin Lin T và K’ Ju Ra B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo K’ Sin Lin T từ 12 đến 15 tháng tù.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo K’ Ju Ra B từ 15 đến 18 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Số lượng Ma túy được thu giữ trong quá trình điều tra, sau khi giám định mẫu vật và lưu mẫu đối chứng, mẫu vật còn lại: 0,0776 (g) được niêm phong có chữ ký ghi họ tên của Phạm Thị Dung, Nguyễn Văn Chiến, K’ Đa và có hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng, là vật cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

Lời nói sau cùng: Bị cáo K’ Sin Lin T và K’ Ju Ra B nhận thấy hành vi của các bị cáo sai trái, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp đúng quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung: Lời khai của bị cáo K’ Sin Lin T và K’ Ju Ra B tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội, biên bản thu giữ vật chứng, Kết luận giám định có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 02/03/2020, K’ Sin Lin T và K’ Ju Ra B cùng nhau góp tiền mua ma túy của người tên N để sử dụng với số tiền 200.000đ, K’ Sin Lin T cất giữ ma túy trong túi quần đang mặc trên người, còn K’ Ju Ra B điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát 34K9- 8680 chở T cùng vào khu vực thôn 1, xã T tìm nơi vắng người để sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an đang làm nhiệm vụ tuần tra phát hiện. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý, vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: bị cáo K’ Sin Lin T và K’ Ju Ra B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

[3] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Methamphetamine là chất ma túy rất độc, gây nghiện, gây nguy hại cho cơ thể người sử dụng, ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của các thế hệ sau này, ảnh hưởng đến kinh tế gia đình và của cả xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn trong xã hội. Các Bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố ý phạm tội. Vì vậy cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo các bị cáo và răn đe giáo dục phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Qúa trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được áp dụng cho các bị cáo khi lượng hình. Riêng bị cáo K’ Sin Lin T, sau khi phạm tội đã đến Công an xã trình diện đầu thú, do vậy được áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm, thu nhập không ổn định, do đó miễn hình phạt bổ sung cho 02 bị cáo.

[6] Về nguồn gốc khối lượng 0,2099g (không phẩy hai không chín chín gam), loại Methamphetamine. Tài liệu điều tra có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, chưa xác định được nhân thân lai lịch của đối tượng tên là N đã bán chất ma túy cho bị cáo K’ Sin Lin T và K’ Ju Ra B ngày 02-03-2020, nên cần tách ra tiếp tục điều tra và xử lý sau.

[7] Về vật chứng của vụ án: Số lượng 0,2099 gam ma túy loại Methamphetamine là đối tượng được giám định, sau khi giám định và lưu mẫu đối chứng, mẫu vật còn lại: 0,0776(g) được cơ quan giám định hoàn trả, được niêm phong trong 01 phong bì số 579/2020 có nội dung: Vụ: K’ Sin Lin T - 2001 HKTT: Thôn 4, T, D, Lâm Đồng; QĐTC: 25/QĐ ngày 10/03/2020; Hoàn mẫu :0,0776(g); có dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng, có chữ ký của Phạm Thị Dung, Nguyễn Văn Chiến, K’ Đa là vật cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Ngoài các vật chứng thu giữ, sau đó trưng cầu giám định nêu trên, Cơ quan điều tra còn thu giữ: 01(một) xe mô tô biển kiểm soát 34K9– 8680 nhãn hiệu LYSOHARA màu nâu số máy FMG200078924; số khung GO12LK078976, 01 giấy đăng ký xe của anh K’ Du và 01 (một) giấy Chứng minh nhân dân mang tên K’Sin Lin T. Xét thấy việc các bị cáo sử dụng chiếc xe mượn của anh K’ Du để sử dụng khi phạm tội, anh Du không biết, do đó ngày 03/06/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D ra quyết định xử lý vật chứng, giao trả phương tiện xe mô tô biển kiểm soát 34K9– 8680 cùng giấy đăng ký mô tô cho anh K’ Du là chủ sở hữu hợp pháp và trả lại 01 (một) giấy Chứng minh nhân dân mang tên K’Sin Lin T, cho bị cáo T. Do đó trong phần quyết định của bản án không đề cập.

[8] Về án phí: Bị cáo K’ Sin Lin T và K’ Ju Ra B mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo K’ Sin Lin T; tên gọi khác: K’Briếu và K’ Ju Ra B, phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo K’ Sin Lin T, tên gọi khác: K’Briếu, 12 ( mười hai ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị tạm giữ 09-03-2020.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo K’ Ju Ra B, 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị tạm giam 16-03-2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,0776(g) Methamphetamine, được niêm phong trong 01 phong bì số 579/2020, có dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng, có chữ ký của Phạm Thị Dung, Nguyễn Văn Chiến, K’ Đa, (Có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/6/2020 giữa Công an D và Chi cục Thi hành án D).

3. Về án phí: Buộc bị cáo K’ Sin Lin T; tên gọi khác: K’Briếu và K’ Ju Ra B, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/HS-ST ngày 30/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về