Bản án 32/2020/HS-ST ngày 16/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 32/2020/HS-ST NGÀY 16/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 7 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 31/2020/TLST-HS, ngày 29 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/QĐXXST-HS, ngày 03 tháng 7 năm 2020, của Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo:

Đinh Văn H, sinh ngày 23 tháng 02 năm 1996, tại huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn B, xã Q, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá lớp 6/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn T (đã chết) và bà Hoàng Thị P; vợ, con: Chưa có; tiền án: Tại bản án số 17/2019/HS-ST ngày 13/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội Vận chuyển hàng cấm; tiền sự: Tại Quyết định số 98/QĐ-XPVPHC ngày 26/4/2019 của Công an huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng xử phạt Đình Văn H 1.000.000đ về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy; nhân thân xấu; hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tràng Định, thời gian tạm giam tính từ ngày tạm giữ 28/3/2020 đến nay, có mặt.

- Người làm chứng: Anh Nông Văn M, sinh năm 1990, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 14 giờ 30 phút ngày 28 tháng 3 năm 2020, tại khu vực đường tuần tra biên giới thuộc thôn P, xã Q, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, tổ kiểm soát cơ động Đồn Biên phòng Pò Mã - Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn bắt quả tang Đinh Văn H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12TA-01937, chở theo Nông Văn M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra chất bột màu trắng trong cốp xe H khai nhận là ma túy Heroine. Tang vật thu giữ gồm: một gói giấy bạc màu trắng, bên trong có chất bột mầu trắng; một xi lanh; 01 xe mô tô biển kiểm soát 12TA-01937 nhãn hiệu ESPERO màu trắng bạc.

Tại cơ quan điều tra, Đinh Văn H khai nhận: Bản thân là người nghiện ma túy Heroine nên trưa ngày 28/3/2020, bị cáo mượn xe mô tô của Nguyễn Văn Đ sang nhà Nông Văn M rủ M đi cửa khẩu Tà Lùng thuộc huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng chơi. Đến nơi, H bảo M đứng một chỗ, bị cáo đã đi mua ma túy với một người tên Tuấn (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) với giá 500.000 đồng (tiền mua ma túy Heroine là của H, khi mua M không biết) và quay lại đón M đi về, đi được 2km thì bị cáo dừng lại lấy ma túy ra sử dụng bằng hình thức chích (hai xi lanh và nước cất, H đã chuẩn bị từ trước). Sử dụng xong thì cả hai đi về thì bị bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 117/KL-PC09 ngày 29/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn đã kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng là 0,103 gam (đã trừ bì).

Tại Bản cáo trạng số 35/CT-VKSTĐ ngày 22/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh lạng Sơn, đã truy tố bị cáo Đinh Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã quy kết. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đinh Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Đinh Văn H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù giam. Bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm c, khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy được thu giữ, tang vật không có giá trị sử dụng và bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng, bị cáo không có lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi cấu thành tội phạm của bị cáo: Lời khai nhận được tàng trữ trái phép chất ma túy Heroinen với khối lượng ma túy đã được giám định của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được; phù hợp với Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đủ cơ sở để kết luận bị cáo Đinh Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, như Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ chấp nhận.

[3] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa và để có mức án phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo, vừa đảo bảo tính răng đe, giáo dục, vừa mang tính chất phòng ngừa loại tội phạm này, Hội đồng xét xử đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của người phạm tội, thấy rằng: Hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng với lỗi cố ý, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được việc tàng trữ ma túy là trái phép, việc sử dụng ma túy là gây tổn hại cho sức khỏe, đồng thời cũng là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật và thực hiện hành vi phạm tội, do đó bị cáo phải bị tuyên là có tội và chịu hình phạt; về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, ngoài tình tiết định khung, bị cáo phạm tội lần này là tái phạm bởi lẽ, bị cáo đã bị xét xử, chưa được xóa án tích, bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội thể hiện khả năng giáo dục hạn chế của bị cáo; về tình tiết giảm nhẹ, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; về nhân thân, bị cáo là người nghiện ma túy, nhân thân xấu. Trên cơ sở đánh giá này, chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, vừa đủ tính răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung, đồng thời giúp bị cáo có điều kiện cai nghiện chất ma túy và cải tạo thành công dân sống có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Qua kết quả xác minh bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, bản thân nghiện ma túy, không sở hữu tài sản có giá trị; vì vậy, Hội đồng xét xử miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, tịch thu tiêu hủy vật chứng không có giá trị sử dụng dùng vào việc phạm tội.

[6] Đối với người đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết họ và địa chỉ do đó không có căn cứ xem xét trong vụ án này.

[7] Bị cáo là người bị kết án thì phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136, các Điều 331, 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đinh Văn H phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đinh Văn H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày 28/3/2020.

Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01(một) phong bì niêm phong có chữ “Tang vật thu giữ khi bắt quả tang Đinh Văn H ngày 28/3/2020” có chữ ký của giám định viên và các thành phần tham gia, bên trong có một gói giấy bạc đựng 0,073 gam Heroine (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết); một xi lanh ký hiệu Discard After use đã qua sử dụng. (Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/6/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn).

4.Về án phí: Buộc bị cáo Đinh Văn H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Đinh Văn H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/HS-ST ngày 16/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về