Bản án 32/2019/HS-ST ngày 11/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 32/2019/HS-ST NGÀY 11/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Đình P, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1985 tại Th; nơi cư trú: thôn L, xã V, thành phố Th, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đình S, sinh năm 1957; con bà: Trịnh Thị H, sinh năm 1961; có vợ là Cao Thị H1, sinh năm 1990 và có 01 con; tiền sự, tiền án: Không; Nhân thân: Quyết định số 2896/QĐ-UBND ngày 17/12/2010 của Ủy ban nhân dân thành phố Th, tỉnh Thái Bình, đưa Trần Đình P vào Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động Xã hội thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Chấp hành xong ngày 20/12/2011; bị bắt tạm giữ từ ngày 04/12/2018 đến ngày 07/12/2018 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thái Bình; có mặt.

- Người chứng kiến:

1. Ông Bùi Gia T, sinh năm 1950; trú tại: phường Q, thành phố Th, tỉnh Thái Bình; vắng mặt

2. Ông Tăng Đình C, sinh năm 1957; trú tại: phường Q, thành phố Th, tỉnh Thái Bình; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ 30 phút ngày 04/12/2018, Trần Đình P điều khiển xe máy nhãn hiệu Longcin, màu nâu, biển kiểm soát 89F3-65** đi từ nhà đến khu vực phường Q, thành phố Th để mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đến nơi, P gặp và mua của một người nam giới khoảng 30 tuổi, không quen biết 200.000 đồng được 01 gói ma túy, bên ngoài được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ. P cầm gói ma túy vừa mua được ở trong lòng bàn tay trái, sau đó điều khiển xe máy đi tìm chỗ để sử dụng. Khi đi đến khu vực phường Q, thành phố Th thì bị tổ công tác Công an phường Quang Trung, thành phố Thái Bình yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Trước sự chứng kiến của ông Bùi Gia T và ông Tăng Đình C, P đã tự giác giao nộp từ lòng bàn tay trái cho tổ công tác 01 gói, bên ngoài được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, mở kiểm tra bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, P khai nhận đó là Hêrôin mua về sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, yêu cầu P và mời người chứng kiến về trụ sở Công an thành phố Thái Bình để làm việc. Tại đây, qua kiểm tra đã thu giữ tại túi quần bên phải phía trước P đang mặc 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng. Kiểm tra xe máy nhãn hiệu Longcin, màu nâu, biển kiểm soát 89F3 - 65** của P, không phát hiện thu giữ gì. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản quản lý phương tiện.

Tại bản kết luận giám định số 414/KLGĐ-PC09 ngày 05 tháng 12 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi: “Vật chứng thu giữ của Trần Đình P sinh năm 1985, trú tại: thôn L, xã V, TP.Th, ngày 04/12/2018” gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin) có khối lượng 0,1904 gam (không phẩy một nghìn chín trăm linh bốn gam).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Đình P không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình nêu trên.

Bản cáo trạng số: 27/CT-VKSTP ngày 23 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Trần Đình P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đi diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo như đã nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Đình P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy

* Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Đình P từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 04 tháng 12 tháng năm 2018.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy có trong 01 phong bì, bên ngoài ghi:

Số 414/KLGĐ mẫu vật hoàn trả sau giám định”.

- Trả lại bị cáo Trần Đình P 01 điện thoại di động Samsung được niêm phong trong phong bì, mặt trước phong bì có ghi: “Điện thoại quản lý của Trần Đình P, sinh năm 1985, trú tại Thôn L, xã V, TP.Th, ngày 04/12/2018” nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến và tranh luận gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo Trần Đình P nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 18 giờ ngày 04/12/2018 tại khu vực phường Q, thành phố Th, Trần Đình P đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,1904 gam mục đích để sử dụng cho bản thân bị cơ quan Công an phường Quang Trung, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, lời khai của bị cáo phù hợp với nhau và còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 18 giờ 10 phút ngày 04 tháng 12 năm 2018; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu lập hồi 18 giờ 45 phút ngày 04 tháng 12 năm 2018; bản Kết luận giám định số: 414/KLGĐ-PC09 ngày 05 tháng 12 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; lời khai của người chứng kiến là ông Bùi Gia T và ông Tăng Đình C; cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.Theo quy định tại điểm c khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thì:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

...”.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trần Đình P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiêm của Nhà nước, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, đi ngược lại với cuộc đấu tranh bài trừ tệ nạn ma túy. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo P không có tiền án tiền sự, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội nhưng cũng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, nhưng do bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, thu nhập của bị cáo không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

[7.1] Cơ quan Công an thu giữ của bị cáo Trần Đình P 0,1904 gam (không phẩy một nghìn chín trăm linh bốn gam) ma túy loại Hêrôin còn lại sau giám định là 0,1746 gam (không phẩy một nghìn bảy trăm bốn mươi sáu gam) trong phong bì niêm phong số 414/KLGĐ-PC09 là vật Nhà nước cấm lưu hành, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu tiêu hủy.

[7.2] Đối với xe máy nhãn hiệu Longcin, màu nâu, biển kiểm soát 89F3 – 6573, đăng ký xe mang tên anh Phạm Đăng T1, sinh năm 1976, trú tại thôn M, xã Đ, huyện K, tỉnh H. Chiếc xe trên anh T1 đã bán cho một người đàn ông không quen biết ở tỉnh Q với giá 7.000.000 đồng. P khai mua chiếc xe trên vào năm 2013 với giá 2.000.000 đồng nhưng đã mất giấy tờ xe nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình tiếp tục xác minh, xử lý sau.

[7.3] Về chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu vàng là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Trần Đình P khai mua của một người nam giới khoảng 30 tuổi, không biết tên, địa chỉ tại khu vực phường Q, thành phố Thái Bình nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; các điều 106, 136, 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Đình P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo Trần Đình P 01 năm (một năm) tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 04 tháng 12 năm 2018 3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy có trong 01 phong bì, bên ngoài ghi: “Số 414/KLGĐ mẫu vật hoàn trả sau giám định”.

3.2. Trả lại bị cáo Trần Đình P 01 điện thoại di động Samsung được niêm phong trong phong bì, mặt trước phong bì có ghi: “Điện thoại quản lý của Trần Đình P, sinh năm 1985, trú tại Thôn L, xã V, TP.Thái Bình, ngày 04/12/2018” nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày 23 tháng 01 năm 2019).

4. Về án phí: Bị cáo Trần Đình P phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 11/3/2019. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HS-ST ngày 11/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về