Bản án 32/2019/HSST ngày 02/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 32/2019/HSST NGÀY 02/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2019/HSST ngày 31 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2019/QĐXXST-HS ngày 14/3/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số01/2019/HSST-QĐ ngày 28/3/2019 đối với bị cáo:

1.Phạm Thành C - Sinh năm 1977.Tên gọi khác: Không.Nơi ĐKNKTT: Phố P, phường T, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Chỗ ở hiện nay: đường C, phố B, phường Đ, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh.Tôn giáo: không.Văn hóa 06/10. Nghề nghiệp: lao động tự do. Con ông Phạm Thế C1 và bà Lưu Thị T. Vợ: Nguyễn Thị D ( đã ly hôn). Con: có 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2004

Tiền án:

+ Tại Bản án số 64/2006/HSST ngày 13/6/2006, Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình xử phạt 06 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, phạt bổ sung5.000.000 đồng. Bị cáo ra trại ngày 20/01/2011.

+ Tại Bản án số 37/2013/HSSTngày 05/04/2013, Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 05 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo ra trại ngày 01/6/2017.

Tiền sự:

+ Ngày 05/02/2018 Công an thành phố Ninh Bình xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi “ sử dụng trái phép chất ma túy”

+ Ngày 24/8/2018 Công an phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình xử phạt1.500.000 đồng về hành vi “ trộm cắp tài sản”

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/10/2018, chuyển tạm giam ngày 12/10/2018, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. Có mặt.

2. Phạm Ngọc S - Sinh năm 1976. Tên gọi khác: Không. Nơi ĐKNKTT: thôn H, xã I, huyện PR, tỉnh Gia Lai. Chỗ ở hiện nay: xã Khánh Hòa, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh.Tôn giáo: không. Văn hóa 7/10. Nghề nghiệp: lao động tự do. Con ông Phạm Ngọc T và bà Nguyễn Thị Y. Vợ: Vũ Thị E. Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2014.

Tiền án: + Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 30/HSST ngày 21/8/1998 Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình xử phạt 6 tháng tù về tội “ cố ý gây thương tích”, bồi thường cho người bị hại 6.319.000 đồng. Tại bản án hình sự phúc thẩm số 49/HSPT ngày 13/10/1998 Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xử y án sơ thẩm. Ra trại về địa phương ngày 18/04/1999. Bị cáo chưa chấp hành xong phần bồi thường dân sự của bản án trên. Tiền sự: không

Về nhân thân

+ Ngày 05/12/2003 Ủy ban nhân dân thị xã Ninh Bình ra Quyết định số 782 đưa người nghiện vào cơ sở chữa bệnh thời hạn 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy

+ Ngày 28/6/2013 Ủy ban nhân dân huyện Chư prông ra Quyết định số 1036 đưa đối tượng vào cơ sở chữa bệnh thời hạn 24 tháng về hành vi vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/10/2018, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. Có mặt.

Bị hại:

-Anh Phạm Anh T1, sinh năm 1985, trú tại phố Đoàn Kết, phường Ninh Phong, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

-Anh Đoàn Văn H, sinh năm 1981, trú tại phố K, phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

-Ông Trần Hải N, sinh năm 1960, trú tại: Phố S, phường B, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

-Ông Tống Văn V, sinh năm 1952, trú tại: Phố V, phường B, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

-Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1976, trú tại: Đường 10, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

-Ông Vũ Anh T1, sinh năm 1979, trú tại: Đường 10, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

Ngưi làm chứng:

1.Anh Vũ Văn Q.

2.Anh Phùng Duy M.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Thành C là đối tượng đã có tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Trộm cắp tài sản”, mới ra trại về địa phương và chưa được xóa án tích. C có mối quan hệ quen biết với Phạm Ngọc S, cả hai đều là người nghiện ma túy. Để có tiền mua ma túy về sử dụng, C rủ S đi tìm những nhà dân có tài sản sơ hở trên địa bàn thành phố Ninh Bình để trộm cắp. Trong thời gian từ ngày 04/10/2018 đến ngày 9/10/2018 C và S đã cùng nhau thực hiện các vụ trộm cắp tài sản cụ thể:

 + Vụ thứ 1: Khoảng 00 giờ ngày 04/10/2018, Phạm Thành C nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền mua ma túy sử dụng, nhưng do C không có xe mô tô nên C gọi điện mượn xe mô tô của Phạm Ngọc S nói để đi trộm cắp tài sản và hẹn S gặp nhau ở khu vực cầu Lim, thành phố Ninh Bình để C lấy xe, S đồng ý và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Attila BKS 29P3-3870 đến chỗ hẹn để đưa xe cho C, khi C mượn xe C nói với S “ lấy xe đi kiếm ít sắt lấy đồ chơi”, S hiểu là C nói mượn xe đi trộm cắp sắt vụn để bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. Sau đó C một mình điều khiển xe đi theo đường quốc lộ 1A cũ hướng Hà Nội – Thanh Hóa. Khi C đi đến khu vực phường Ninh Phong thì phát hiện thấy cửa hàng tiện sắt của anh Phạm Anh T1, sinh năm 1985 ở số nhà 625, phố Đoàn Kết, phường Ninh Phong, thành phố Ninh Bình có để nhiều ống sắt ở ngoài, C dừng xe và đi vào quan sát không thấy có người trông coi và thấy 01 cây sắt tròn dài 1,2 mét, đường kính 10cm để bên ngoài cửa hàng tiện sắt, C lấy rồi để ngang đoạn sắt ở chỗ giá để chân của xe mô tô Attila, C điều khiển xe mô tô đi được khoảng 300m do thanh sắt nặng nên xe mô tô bị đâm vào cột mốc bên đường làm xe bị hỏng không đi được nữa. Sau đó C gọi điện cho S nói xe bị hỏng và bảo S đi xuống cầu Ninh Phong, thành phố Ninh Bình. Khoảng 30 phút sau S đi bộ xuống đến nơi thì thấy xe mô tô bị đổ bên cạnh có một cây sắt dài, S biết cây sắt C vừa trộm cắp được. Khi S đến C nói đứng trông xe và cây sắt còn C đi lên khu vực cầu Lim thuê một người thanh niên không quen biết làm nghề lái xe ôm xuống khu vực cầu Ninh Phong chở sắt mang đi bán. C ngồi sau xe cầm ngang đoạn sắt mang bán tại một cửa hàng thu mua phế liệu ở khu vực trường cấp 3 Đinh Tiên H thuộc phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình. Quá trình bán cây sắt người chủ cửa hàng thu mua phế liệu cân được 80kg và thỏa thuận mua với giá 7000 đồng/kg, C đồng ý bán và lấy số tiền 560.000 đồng.

Sau đó C đi xe ôm về chỗ S ngồi đợi ở khu vực cầu Ninh Phong và trả tiền xe ôm hết 50.000 đồng, C đưa 400.000 đồng cho S đi mua ma túy về sử dụng, còn 110.000 đồng C cầm sử dụng. Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Attila do bị hỏng nên S cùng C đẩy lên khu vực cầu Lim rồi S thuê xích lô chở xuống cửa hàng sửa chữa xe máy của anh Nguyễn Xuân T sinh năm 1968 trú tại đường 10, phố B, phường Ninh Sơn, thành phố Ninh Bình và bán chiếc xe máy Attila đã bị hư hỏng được 600.000 đồng. Sau khi phát hiện bị mất trộm tài sản anh Phạm Anh T1 đã làm đơn trình báo Công an thành phố Ninh Bình về việc rạng sángngày 04/0/2018 anh T1 bị mất trộm 01 cây sắt nói trên.

Ngày 09/10/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình thu giữ tại cửa hàng sửa chữa xe máy của anh Nguyễn Xuân T, sinh năm 1968 ở phố B, phường Ninh Sơn, thành phố Ninh Bình 01 biển kiểm soát xe mô tô 29P3-3870 còn gắn liền với đuôi chắn bùi bằng nhựa đen, 01 đăng ký xe mô tô 29P3-3870 mang tên Trần Văn Tứ, địa chỉ: số 23 Trương Hán Siêu, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, 01 đèn pha + phần nhựa ốp đèn pha phần trước của xe. Về nguồn gốc chiếc xe trên được anh Trường khai nhận khoảng tháng 9 năm 2018 anh Trường mua lại chiếc xe Attila biển kiểm soát 29P3-3870 của một người thanh niên tên Nhuận nhưng không có giấy tờ mua bán sau đó ngày 24/09/2018 anh Trường đã bán chiếc xe Attila biển kiểm soát 29P3-3870 cho S, đến khoảng đầu tháng 10/2018 S đến bán lại cho anh Trường chiếc xe trên trong tình trạng xe đã bị hư hỏng với giá 600.000 đồng, sau khi mua lại của S anh Trường đã bán các phụ tùng của chiếc xe Attila biển kiểm soát 29P3-3870 cho người thu mua đồng nát không biết tên, tuổi địa chỉ và chỉ giữ lại các phần chi tiết 01 biển kiểm soát xe mô tô 29P3-3870 còn gắn liền với đuôi chắn bùi bằng nhựa đen, 01 đăng ký xe mô tô 29P3-3870 mang tên Trần Văn Tứ, địa chỉ: số 23 Trương Hán Siêu, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, 01 đèn pha + phần nhựa ốp đèn pha phần trước của xe.

Ngày 10/10/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình ra quyết định trưng cầu định giá tài sản 01 cây sắt tròn, đặc, đường kính 10cm, dài 1m2, nặng 80kg.Tại bản Kết luận định giá tài sản số 72 ngày 11/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố Ninh Bình kết luận:01 cây sắt tròn, đặc, đường kính 10cm, dài 1,2m, nặng 80 kg trị giá là 1.200.000 đồng.

Đối với cây sắt C đã trộm cắp của nhà anh T1 và mang bán tại khu vực trường cấp 3 Đinh Tiên H thuộc phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình, C khai không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể của người chủ cửa hàng đã mua cây sắt, Cơ quan điều tra đã tiến hành rà soát xác minh trên địa bàn phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình nhưng không có kết quả và không thu giữ được vật chứng. Cơ quan điều tra đã làm việc với anh Phạm Anh T1 về việc tài sản anh T1 bị trộm cắp nhưng không thu hồi được, anh T1 không có yêu cầu, đề nghị bồi thường dân sự đối với cây sắt anh T1 bị Phạm Thành C trộm cắp.

Như vậy trị giá tài sản Phạm Thành C và Phạm Ngọc S chiếm đoạt ngày04/10/2018 của anh Phạm Anh T1 là 1.200.000 đồng.

 + Vụ thứ 2: Khoảng 00 giờ ngày 06/10/2018 C tiếp tục gọi điện rủ S đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền mua ma túy sử dụng, S đồng ý và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Attila ( S không nhớ biển kiểm soát mượn của một người thanh niên tên Hoàn trú tại khu vực ngã tư Hoa Đô, phường Tân Thành, thành phố Ninh Bình) đến cầu Lim, thành phố Ninh Bình để gặp C và cùng C đi trộm cắp tài sản. C chở S từ cầu Lim đi theo quốc lộ 1A đến địa phận phường Ninh Phong, thành phố Ninh Bình thì rẽ trái đi qua cầu vượt Ninh Phong khoảng 200m thì C phát hiện phía bên phải đường có 01 xe ô tô tải biển kiểm soát 29C-564.43 của anh Đoàn Văn H, sinh năm 1981 trú tại Phố Đoàn Kết, phường Ninh Phong, thành phố Ninh Bình đang dừng đỗ không có người trông coi, C dừng xe và bảo S đứng cảnh giới còn C đi vào tìm tài sản trên xe ô tô để trộm cắp. Khi đến vị trí xe ô tô biển kiểm soát 29C-564.43 C phát hiện thấy 02 bình ắc quy hiệu Globe 12V/85Ah ở dưới gầm thùng xe ô tô, C dùng chiếc cờ lê đã mang theo từ nhà tháo một bình ắc quy của xe ô tô ra rồi bê ra đưa cho S nói “ mang đi cất giấu để C quay lại lấy tiếp còn một cái nữa” S cầm chiếc bình ắc quy C đưa mang đi cất giấu ở ven đường cách vị trí xe ô tô khoảng 200m và quay lại cảnh giới cho C, còn C tiếp tục đến xe ô tô tháo tiếp chiếc bình ắc quy còn lại và bê ra chỗ S đứng cảnh giới rồi C chở S cùng chiếc bình ắc quy đi đến chỗ S đang giấu bình ắc quy lấy lên xe rồi C chở S cùng hai chiếc bình ắc quy đi xuống cửa hàng thu mua phế liệu của anh Nguyễn Văn T2, sinh năm 1976 ở đường 10, xã Khánh An, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình để bán hai chiếc bình ắc quy xe ô tô vừa trộm cắp. Đến nhà anh T2, C gọi cửa, anh T2 ra mở cửa thì C nói ắc quy của mình đã cũ, bị hỏng nên muốn bán lấy tiền, anh T2 nghĩ là tài sản của C bị hỏng muốn bán nên đồng ý mua. Anh T2 cân hai chiếc bình ắc quy được 40kg rồi trừ đi 5kg nước còn 35kg và thống nhất mua với giá 20.000 đồng/kg, C đồng ý bán và nhận số tiền bán ắc quy là 700.000 đồng.

Sau khi đã bán được bình ắc quy, C nói với anh T2 anh để cửa em còn mấy bao sắt nữa muốn bán, anh T2 không nói gì và đóng cửa đi ngủ. Sau đó C nói với S “trên xe ô tô còn nhiều sắt vụn lắm quay lại lấy tiếp” rồi C và S tiếp tục quay lại xe ô tô biển kiểm soát 29C-564.43, C bảo S đứng dưới cảnh giới còn C trèo lên thùng xe ô tô không khóa lấy lần lượt được 06 bao tải bên trong đựng sắt phế liệu và chuyển xuống cho S để xuống đường. Sau đó C dùng xe mô tô chở 04 bao sắt vụn phế liệu mang xuống bán cho anh T2, còn S ở lại trông 02 bao sắt. Anh T2 cân 4 bao sắt được 146 kg và mua với giá 6.500 đồng/kg rồi trả cho C số tiền 949.000 đồng. Qúa trình đứng đợi C đi bán 04 bao sắt, S lên thùng xe ô tô và lấy tiếp 01 bao sắt vụn phế liệu còn lại mang xuống đường. Sau khi đã bán được 04 bao sắt C điều khiển xe mô tô quay lại chỗ S đang đứng chờ và chở S cùng 3 bao tải đựng sắt vụn xuống bán cho anh T2. Anh T2 cân được 85kg và mua với giá 6.500 đồng/kg rồi trả cho C và S số tiền 550.000 đồng. Số tiền trên C dùng để mua ma túy về sử dụng cùng với S. Sau khi phát hiện bị mất trộm tài sản anh H đã làm đơn trình báo Công an thành phố Ninh Bình.

Ngày 10/10/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình thu giữ tại cửa hàng thu mua phế liệu của anh Nguyễn Văn T2, sinh năm 1976, trú tại đường 10, xã Khánh An, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình: 07 bao tải đựng sắt nặng 231kg, 02 bình ắc quy nhãn hiệu Globe 12V-85Ah là số tài sản C và S trộm cắp trên xe ô tô của anh Đoàn Văn H ngày 06/10/2018 và mang đến bán cho anh Nguyễn Văn T2. Ngày 10/10/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình ra Quyết định trưng cầu định giá tài sản đối với : 02 bình ắc quy xe ô tô tải nhãn hiệu Globe 12V/85Ah; 231kg sắt phế liệu. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 70 ngày 11/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố Ninh Bình kết luận: 02 chiếc bình ắc quy hiệu Globe 12V/85Ah trị giá 3.000.000 đồng; 231 kg sắt phế liệu trị giá là 1.617.000 đồng.

Quá trình điều tra, cơ quan điều tra xác định 07 bao tải đựng sắt phế liệu nặng231kg, 02 bình ắc quy nhãn hiệu Globe 12V/85Ah thu giữ tại cửa hàng thu mua phế liệu của anh Nguyễn Văn T2 là số tài sản của ông Đoàn Văn H bị mất trộm ngày 06/10/2018 nên cơ quan điều tra đã trả lại toàn bộ số tài sản trên cho anh H. Anh H đã nhận lại toàn bộ số tài sản trên và không có yêu cầu, đề nghị gì đối với C và S.

Như vậy tổng giá trị tài sản ngày 6/10/2018 C và S chiếm đoạt của ông Đoàn Văn H là 4.617.000 đồng .

 + Vụ thứ 3: Khoảng 00 giờ ngày 07/10/2018, C đang ở phòng trọ của S ở xã Khánh Hòa, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình nên rủ S đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền mua ma túy sử dụng, S đồng ý và lấy xe mô tô Attila đã mượn từ trước của người thanh niên tên Hoàn đưa cho C điều khiển chở S đi tìm nhà dân có tài sản sơ hở để trộm cắp. C điều khiển xe chở S đi đến khu vực phố Bích Sơn, phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình thì phát hiện gia đình ông Trần Hải N, sinh năm 1960 ở phố Trung Sơn, phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình có để 01 đống sắt là thiết bị cũ của tàu thủy được phủ bạt trên vỉa hè đối diện nhà, C bảo S đứng cảnh giới để C vào tìm cách trộm cắp tài sản, khi C vào thì thấy cạnh đống sắt trên có nhiều xích sắt, C xác định sẽ lấy trộm toàn bộ số xích sắt này và kéo xích sắt ra được khoảng 1 mét.

Do xích dài và C nghĩ xe mô tô của S không chở hết được số xích sắt nên C ra bảo với S “ nhiều xích lắm còn sớm chưa lấy vội cứ để đấy đi ra đây tí quay lại lấy trộm sau”, S đồng ý rồi C chở S đi khoảng 200 mét phát hiện ra nhà đang xây dựng của ông Tống Văn V sinh năm 1952 ở phố Đông Sơn, phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình, C bảo S đứng cảnh giới còn C vào khu vực nhà đang xây dựng của ông V thấy không có ai trông coi và không có cửa, C và S vào lấy được 01 tấm cốt pha bằng sắt có kích thước (0,3x2)m, 01 chiếc kìm cộng lực bị gãy tay cầm và nhiều đoạn sắt được bẻ cong hình chữ nhật dạng phi 6, phi 10, phi 12 xuống cửa hàng thu mua phế liệu của anh Vũ Anh T1, sinh năm 1979, trú tại Khánh An, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình và nói có ít sắt vụn muốn bán. Anh T1 không biết là tài sản C và S trộm cắp nên đồng ý mua và cân lên được 80 kg anh T1 thỏa thuận mua với giá 7000 đồng/kg. C và S đồng ý bán và anh T1 trả cho C và S số tiền 560.000 đồng. Sau khi bán được số tài sản đã trộm cắp tại nhà ông Vỵ. Do xe của S bị thủng xăm nên C bảo S về trước vá săm còn C đi thuê xe tacxi lấy trộm số xích sắt bán lấy tiền để C và S mua ma túy sử dụng. S đồng ý và dắt xe đi về vá xăm. Khi C đang đi trên đường thì thấy có chiếc tacxi hãng Xuân Thành chạy qua nên vẫy lại nói người thanh niên lái xe taxi “vào chở cho ít sắt”. Người lái taxi không nói gì và C chỉ đường cho người đàn ông lái xe taxi đến chỗ để xích sắt rồi C kéo xích sắt bỏ vào cốp sau xe tacxi.

C nói chở xuống xã Khánh An, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình thì người lái taxi nói chở xuống đấy hết 300.000 đồng, C đồng ý. C chỉ đường cho người đàn ông lái xe tacxi xuống cửa hàng thu mua phế liệu của anh Nguyễn Văn T2 để bán xích sắt. Khi gặp anh T2, C nói có ít sắt cũ muốn bán, anh T2 không biết đây là tài sản do C trộm cắp mà có nên đồng ý mua nhưng do thấy xích sắt dài anh T2 thỏa thuận với C mua số xích sắt trên với giá là 1.750.000 đồng, C đồng ý bán và nhận tiền, rồi C đi tacxi về nhà và trả tiền công hết 300.000 đồng. Sáng hôm sau gặp S thì C nói đã trộm cắp được số xích sắt trên và mang bán. Số tiền bán xích sắt C mua ma túy về sử dụng cùng với S.

Ngày 10/10/2018 Cơ quan điều tra thu giữ tại cửa hàng thu mua phế liệu của anh Vũ Anh T1, sinh năm 1979 ở xã Khánh An, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình:

01 tấm cốt pha sắt kích thước (0,3x2)m, nặng 15kg, sắt vụn phi 6 nặng 36 kg là số tài sản C và S trộm cắp của ông Tống Văn V ngày 07/10/2018 rồi mang bán cho anh T1 đồng thời thu giữ tại cửa hàng thu mua phế liệu của anh Nguyễn Văn T2, sinh năm 1976, trú tại đường 10, xã Khánh An, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình: 426 kg xích sắt là số tài sản C và S trộm cắp của ông Trần Hải Ninh ngày 07/10/2018 mang bán cho anh Nguyễn Văn T2.

Ngày 10/10/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình ra Quyết định trưng cầu định giá tài sản đối với : 426kg xích sắt. Ngày 26/10/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình ra Quyết định trưng cầu định giá tài sản đối với : 01 tấm cốt pha sắt kích thước (0.3x2)m nặng 15kg; 65kg sắt (phi 6, phi 10, phi 12, 01 chiếc kìm công lực bị gãy tay cầm).Tại bản kết luận định giá tài sản số 70 ngày 11/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố Ninh Bình kết luận: 426 kg xích sắt trị giá là 2.982.000 đồng.Tại bản kết luận định giá tài sản số 74 ngày 29/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố Ninh Bình kết luận: 80kg sắt vụn trị giá 575.000 đồng.

Như vậy ngày 7/10/2018 tổng trị giá tài sản Phạm Thành C và Phạm Ngọc S chiếm đoạt của ông Tống Văn V và ông Trần Hải N là 3.557.000 đồng.

Quá trình điều tra, cơ quan điều tra xác định số tài sản trên thuộc quyền sở hữu của ông V và ông N nên đã trả lại toàn bộ số tài sản trên có ông V và ông N. Ông V và ông N đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì đối với C và S. Về 01 chiếc kìm cộng lực bị gãy tay cầm không có giá trị sử dụng và số sắt vụn phi 10, phi 12 C và S trộm cắp của ông V mang bán cho anh Vũ Anh T1 nhưng anh T1 khai đã bị ăn trộm mất nên khi thu giữ cơ quan điều tra chỉ thu giữ được 01 tấm cốt pha bằng sắt kích thước (0,3x2)m nặng 15kg và 36 kg sắt phi 6. Số tài sản còn lại không thu giữ được ông Vỵ cũng không có yêu cầu đề nghị gì đối với C và S.

Vụ thứ tư: Khoảng 18 giờ 00 ngày 08/10/2018 C gọi điện rủ S đi trộm cắp tài sản, S đồng ý. Đến khoảng 00 giờ ngày 09/10/2018 C đi bộ từ nhà và cầm theo một bao tải bên trong có đựng dụng cụ cờ lê, mỏ lết, lưỡi cưa, đèn pin, kìm để trộm cắp tài sản rồi đi lên khu vực Cầu Lim đợi S. Còn S điều khiển xe mô tô Wave biển kiểm soát 35F3-3340 đi từ phòng trọ ở Khánh Hòa, Yên Khánh, Ninh Bình đi lên khu vực Cầu Lim, thành phố Ninh Bình để gặp C đi trộm cắp tài sản. C điều khiển xe chở S đi quanh thành phố Ninh Bình tìm sơ hở để trộm cắp, khi đi đến khu vực phố Bích Sơn, phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình thì C phát hiện gia đình ông Trần Hải N, sinh năm 1960, ở phố Trung Sơn, phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình có để 01 đống sắt là thiết bị cũ của tàu thủy ở trên vỉa hè đối diện nhà, C điều khiển xe đi qua khoảng 20m thì dừng lại bảo S đi giấu xe và S đứng cảnh giới. C cầm 01 cờ lê và 01 mỏ lết đi vào chỗ để đồng sắt, C phát hiện một khối sắt hình trụ, C cất chiếc mỏ lết vào trong túi áo đang mặc và dùng cờ lê phi 21 tháo rời từng bộ phận của khối sắt hình trụ ra, sau khi đã tháo rời được các bộ phận của trục sắt, C bê từng thiết bị đã được tháo sẵn ra đưa cho S mang đi cất giấu gồm 02 bu lông bằng kim loại dài 35cm, đường kính 2,5cm, 01 khối kim loại hình cung cong chiều dài cung 28cm, cao 20cm, dầy 2cm, 01 khối kim loại hình cung cong, kích thước 55x20cm và nói với S “ tôi tháo rời hết các bộ phận ra rồi chỉ vào bê ra thôi”. Khi C và S đi đến lấy 01 khối kim loại hình cung cong, kích thước 28,5 cm, cao 20cm, dầy 2cm; 01 hình trụ bằng kim loại hình chữ I, dài 60cm còn lại thì bị người dân phát hiện tri hô, C và S bỏ chạy và nhảy xuống ao bèo gần đó để lẩn trốn. C bị bắt giữ ngay sau đó còn S lẩn trốn dưới ao đến 06 giờ cùng ngày thì bị lực lượng Công an phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình và quần chúng nhân dân bắt giữ.

Tại hiện trường cơ quan điều tra thu giữ: 01 khối kim loại hình cung cong, kích thước 28,5 cm, cao 20cm, dầy 2cm, nặng 8,45kg; 01 khối kim loại hình cung cong, kích thước 34cm, cao 30cm, dầy 2cm, nặng 32,45kg; 01 khối kim loại hình cung cong, kích thước 55x20cm, nặng 67,45kg; 02 bu lông bằng kim loại dài 35cm, đường kính 2,5cm, 01 khối kim loại hình cung cong chiều dài cung 28cm, cao 20cm, dầy 2cm, nặng 11,95kg; 01 hình trụ bằng kim loại hình chữ I, dài 60cm, hay đáy bằng nhau, đường kính 34cm, đáy dầy 4cm, đường kính trụ giữa 15cm, nặng 127,85kg là tài sản mà bị cáo C và S đã chiếm đoạt của ông Trần Hải Ninh. Ngày 10/10/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã tiến hàng trưng cầu định giá các tài sản trên. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 71 ngày 11/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố Ninh Bình kết luận tổng trị giá tài sản là 1.737.000 đồng. Cơ quan điều tra đã trả lại toàn bộ số tài sản trên cho ông Ninh, ông Ninh đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì đối với C và S.

Quá trình các bị cáo bỏ chạy, Cơ quan điều tra thu giữ 01 cờ lê kim loại ghi số 21, 01 bao tải; 01 xe máy nhãn hiệu Wave màu xanh biển kiểm soát 35F3-3340, kiểm tra bên trong cốp xe có: 01 cờ lê bằng kim loại thân cờ lê ghi số 14, 17; 01 cờ lê bằng kim loại thân cờ lê ghi số 10; 01 cờ lê bằng kim loại thân cờ lê ghi số 12, 13; 01 mỏ lết bằng kim loại dài 45cm có ghi số 18-450mm; 01 kìm bằng kim loại có tay cầm màu đỏ dài 20cm; 01 thanh sắt đặc dài 40cm, 01 lưỡi cưa bằng kim loại dài 30cm, 01 ruột tô vit bằng kim loại; mà C và S đã mang theo khi đi trộm cắp. Khi bắt giữ được C thu giữ trên người Phạm Thành C: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã bị hỏng, 01 đèn pin màu trắng, 01 mỏ lết bằng kim loại dài 20cm có ghi số 200x24.

Như vậy tổng tài sản C và S chiếm đoạt các ngày 4/10/2018; 6/10/2018; 7/10/2018; 9/10/2018 là 11.111.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 28/01/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình đã truy tố bị cáo Phạm Thành C tại điểm g khoản 2, khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 và Phạm Ngọc S tại khoản 1, khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 về tội Trộm cắp tài sản.

Tại phiên toà Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Hội đồng xét xử tuyên bố: các bị cáo Phạm Thành C và Phạm Ngọc S phạm tội Trộm cắp tài sản. Áp dụng điểm g khoản 2, Điều 173, điểm g khoản 1 Điều 52 , điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 đối với Phạm Thành C, xử phạt C từ 36 đến 42 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 09/10/2018. Áp dụng khoản1 Điều 173, điểm g, h khoản 1 Điều 52, điểm s, khoản 2 khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với Phạm Ngọc S xử phạt S từ 18 đến 21 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 12/10/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 04 cờ lê, 02 mỏ lết, 01 kìm, 01 thanh sắt, 01 lưỡi cưa, 01 ruột tuvit, 01 điện thoại Nokia, 01 đèn pin, 01 bao tải. Buộc C nộp lại số tiền 5.069.000 đồng để sung quỹ Nhà nước do hưởng lợi bất chính mà có (Do bị cáo C và S tự thỏa thuận để bị cáo C nộp toàn bộ. Các bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu ở trên và đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[2].Về tội danh và hình phạt: Trong thời gian các ngày 04/10/2018, 06/10/2018, 07/10/2018, 09/10/2018 Phạm Thành C và Phạm Ngọc S đã lợi dụng sơ hở đêm tối không có người trông coi lén lút trộm cắp tài sản của người dân. Cụ thể:

- Khoảng 00 giờ ngày 04/10/2018 chiếm đoạt của anh Phạm Anh T1 ở phố Đoàn Kết, phường Ninh Phong, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình 01 cây sắt để ở bên ngoài nhà. Trị giá cây sắt là 1.200.000đồng.

- Khoảng 00 giờ ngày 06/10/2018 chiếm đoạt của nhà anh Đoàn Văn H 02 chiếc ắcquy hiệu Globe 12V/85Ah để dưới gầm thùng xe của chiếc ô tô tải để ở bên ngoài đường. Trị giá 02 chiếc ắc quy trị là 3.000.000 đồng; 07 bao tải sắt phế liệu để ở trên xe tô có tổng trọng lượng là 231 kg sắt phế liệu trị giá là 1.617.000 đồng. Tổng cộng là 4.617.000đồng.

- Khoảng 00 giờ ngày 07/10/2018 chiếm đoạt của nhà ông Trần Hải N ở phố Trung Sơn, phường Bích Đào 426 kg xích sắt để ở ngoài đường trị giá 2.982.000đồng; của ông Tống Văn V ở phố Đông Sơn, phường Bích Đào: 01 tấm cốt pha sắt kích thước (0.3x2)m nặng 15kg; 65kg sắt (gồm các loại sắt phi 6, phi 10, phi 12 và 01 chiếc kìm công lực bị gãy tay cầm) để ở ngoài đường do nhà ông V đang xây dựng nhà. Trị giá các tài sản lấy của ông Tống Văn V là 575.000 đồng.Tổng trị giá tài sản Phạm Thành C và Phạm Ngọc S chiếm đoạt của ông Tống Văn V và ông Trần Hải N là 3.557.000 đồng.

- Khoảng 00 giờ, ngày 09/10/2018 chiếm đoạt của ông Trần Hải N 01 khối sắt hình trụ của thiết bị tàu thủy đã cũ để ở trên vỉa hè. C và S đã tháo rời ra gồm: 01 khối kim loại hình cung cong, kích thước 28,5 cm, cao 20cm, dầy 2cm, nặng 8,45kg; 01 khối kim loại hình cung cong, kích thước 34cm, cao 30cm, dầy 2cm, nặng 32,45kg;

01 khối kim loại hình cung cong, kích thước 55x20cm, nặng 67,45kg; 02 bu lông bằng kim loại dài 35cm, đường kính 2,5cm, 01 khối kim loại hình cung cong chiều dài cung 28cm, cao 20cm, dầy 2cm, nặng 11,95kg; 01 hình trụ bằng kim loại hình chữ I, dài 60cm, hay đáy bằng nhau, đường kính 34cm, đáy dầy 4cm, đường kính trụ giữa 15cm, nặng 127,85kg thì bị nhân dân phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng.Trị giá tài sản là 1.737.000 đồng.

Tổng cộng giá trị tài sản mà các bị cáo đã chiếm đoạt là 11.111.000 đồng.

Tại phiên tòa các bị cáo C, S cũng đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận định giá tài sản và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Đối chiếu với quy định của pháp luật, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của Phạm Thành C, Phạm Ngọc S phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.

Bị cáo Phạm Thành C là người đã có hai tiền án cụ thể tại Bản án số 64/2006/HSST ngày 13/6/2006, Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình xử phạt 06 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và tại Bản án số 37/2013/HSST ngày 05/04/2013, Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 05 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích nên hành vi phạm tội lần này thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Ngọc S thuộc trường hợp khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được Luật hình sự bảo vệ. Các bị cáo đều là những người nghiện ma túy đã bị đưa đi cơ sở cai nghiện để chữa bệnh nhưng vẫn tái nghiện, để có tiền phục vụ nhu cầu sử dụng ma túy, các bị cáo đã liên tục cùng nhau chiếm đoạt tài sản của người dân để bán lấy tiền phục vụ nhu cầu bản thân, gây tâm lý bất bình và mất trật tự cộng cộng trong quần chúng nhân dân. Do vậy cần phải xử phạt các bị cáo hình phạt nghiêm minh, cách ly với xã hội một thời gian để có điều kiện cải tạo thành công dân có ích cho xã hội đồng thời cũng nhằm giáo dục pháp luật và phòng ngừa C. Khi quyết định hình phạt, có xem xét đánh giá tính chất, vai trò, mức độ, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo:

Đối với bị cáo Phạm Thành C có hai tiền sự cụ thể: ngày 05/2/2018 bị Công an thành phố Ninh Bình xử phạt hành chính phạt tiền 1.000.000đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”, ngày 24/8/2018 Công an phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “ trộm cắp tài sản”, bị cáo phạm tội từ hai lần trở lên thuộc tình tiết tăng nặng tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người khởi xưởng, rủ rê và là người thực hành tích cực trong vụ án nên giữ vai trò đầu.

Đối với bị Phạm Ngọc S là người đã có tiền án bị xử phạt 6 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích tại Bản án số 30/HSST ngày 21/8/1998 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, chưa được xóa án tích do chưa chấp hành xong phần trách nhiệm dân sự, nhưng không lấy đó làm bài học nay lại phạm tội thuộc tình tiết tăng nặng “tái phạm” và “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong vụ án này, bị cáo là người giúp sức tích cực cả về công cụ phương tiện phạm tội cùng với việc thực hiện trộm cắp tài sản. Hành vi của bị cáo giữ vai trò thứ hai.

Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo C, S đã đầu thú sau khi có đơn tố giác của công dân; quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo; tính chất đồng phạm mang tính giản đơn. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy cần giảm nhẹ cho các bị cáo C và S một phần hình phạt.

Các bị cáo lao động tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[3].Về vật chứng: Đối với các cờ lê, mỏ lết, tô vít, kìm, lưỡi cưa, thanh sắt, điện thoại Nokia, 01 đèn pin và bao tải mà Cơ qua điều tra đã thu giữ của các bị cáo. Đây là các công cụ phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, đã cũ, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền C, S đã bán các tài sản trộm cắp được trong 04 ngày nói trên tổng số tiền là 5.069.000đồng. Đây là số tiền hưởng lợi bất chính cần buộc các bị cáo C, S nộp lại để sung quỹ Nhà nước. Tại phiên tòa, các bị cáo C, S khai số tiền nói trên bị cáo C và S mua ma túy về sử dụng, ngoài ra bị cáo C còn sử dụng để chi tiêu cá nhân. Tại phiên tòa bị cáo C và bị cáo S thống nhất thỏa thuận để bị cáo C nộp toàn bộ số tiền trên để sung quỹ nhà nước. Nên cần buộc bị cáo C nộp số tiền 5.069.000đồng để sung quỹ nhà nước.

 [4].Về trách nhiệm dân sự: Tại giai đoạn điều tra, anh Đoàn Văn H, ông Tống Văn V, ông Trần Hải N đã nhận lại các tài sản mà bị cáo C và S đã chiếm đoạt; đối với anh Phạm Văn T1 bị trộm cắp tài sản là cây sắt nhưng không thu hồi được, anh T1 không có yêu cầu bồi thường dân sự. Đến nay anh T1, anh H, ông Vỵ, ông Ninh đều không có đề nghị bồi thường gì nữa nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Các vấn đề khác:Về hành vi trộm cắp tài sản ngày 04/10/2018 và ngày 09/10/2017 của Phạm Ngọc S cùng với Phạm Thành C đều dưới 2.000.000 đồng.Về hành vi chiếm đoạt tài sản này của S không thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a đến điểm đ khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự. Do vậy Công an thành phố Ninh Bình đã ra quyết xử phạt hành chính “phạt tiền” đối với Phạm Ngọc S về hành vi trộm cắp tài sản ngày 4/10/2018 và ngày 9/10/2018 là phù hợp với pháp luật.

Đối với người thanh niên tên Hoàn là người S khai đã cho S mượn xe Attila để đi trộm cắp tài sản nhưng S chỉ biết Hoàn trú tại khu vực ngã tư Hoa Đô, phường Tân Thành, thành phố Ninh Bình, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã tiến hành xác minh trên địa bàn phường Tân Thành có anh Dương Thế Hoàn, sinh năm 1981, trú tại phố Khánh Thành, phường Tân Thành, thành phố Ninh Bình và đã tiến hành triệu tập nhiều lần nhưng anh Hoàn không có mặt tại nơi cư trú. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã tách phần tài liệu liên quan đến Dương Thế Hoàn để tiếp tục xác minh, nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với anh Nguyễn Văn T2 và anh Vũ Anh T1 là những người đã mua số tài sản mà C và S trộm cắp được mang bán nhưng khi mua anh T2 và anh T1 không biết số tài sản trên là do C và S trộm cắp được mà có và cũng không hứa hẹn trước với C và S. Vì vậy không có đủ căn cứ để xử lý hình sự đối với anh T2 và anh T1 là phù hợp pháp luật.

Về số tài sản anh T2 và anh T1 đã giao nộp cho cơ quan điều tra cũng như số tiền anh T2, anh T1 đã mua tài sản của C và S, anh T2 anh T1 không có yêu cầu đề nghị gì đối với C và S nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với người đàn ông làm nghề lái xe ôm C khai đã thuê chở C đến cầu Ninh Phong lấy cây sắt C trộm cắp ngày 4/10/2018 mang đi bán, C không biết tên, tuổi địa chỉ và không nhớ biển kiểm soát xe mô tô người đàn ông đã chở C đi bán cây sắt nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ.

Đối với người đàn ông lái xe taxi hãng Xuân Thành là người C khai đã thuê chở C đi lấy số xích sắt C trộm cắp ngày 7/10/2018 ở phố Trung Sơn, phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình sau đó chở C đi bán tại nhà anh Nguyễn Văn T2 nhưng C khai khi C đi bộ ở khu vực siêu thị BigC thì thấy xe taxi của người đàn ông này đi qua nên C gọi lại và thuê chở, C không biết tên tuổi địa chỉ, biển số xe taxi người này, do vậy cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, S dùng để liên lạc với C đi trộm cắp tài sản, S khai quá trình bỏ chạy khi bị người dân đuổi bắt S đã làm rơi nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Đối với số vật chứng bao gồm 01 xe máy nhãn hiệu Wave màu xanh, BKS: 35F3-3340 S khai mua của một người không quen biết tại xã Khánh An, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình nhưng không có giấy tờ mua bán, cơ quan điều tra đã tra cứu đăng ký xe mang tên anh Đinh Anh T1, địa chỉ: phường Bích Đào, Ninh Bình; 01 biển số xe 29P3-3870 còn gắn liền với đuôi chắn bùi bằng nhựa đen, 01 đăng ký xe mô tô 29P3-3870 mang tên Trần Văn Tứ, địa chỉ số 23 Trương Hán Siêu, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, 01 đèn pha và phần nhựa ốp đèn pha phần trước của xe do ông Nguyễn Văn Trường giao nộp. Cơ quan điều tra đã xác minh thông tin nhưng không xác định được chủ sở hữu hiện nay là ai, nên đã tách phần tài liệu đến số tài sản, đồ vật trên ra để xác minh làm rõ sau.

[6]. Các bị cáo Phạm Thành C và Phạm Ngọc S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7]. Các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong thời gian luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 đối với Phạm Thành C.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm g, h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 đối với Phạm Ngọc S.

Tuyên bố: Các bị cáo Phạm Thành C và Phạm Ngọc S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt Phạm Thành C 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 09/10/2018.

Xử phạt Phạm Ngọc S 17 (mười bẩy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 12/10/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

-Tịch thu tiêu hủy 04 cờ lê, 02 mỏ lết, 01 kìm, 01 thanh sắt, 01 lưỡi cưa, 01 tô vít, 01 điện thoại, 01 đèn pin, 01 bao tải.

(Vật chứng có đặc điểm theo như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04 tháng 3 năm 2019 giữa Công an Thành phố Ninh Bình và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình).

-Buộc bị cáo Phạm Thành C phải nộp 5.069.000đồng (năm triệu không trăm sáu chín nghìn đồng) để sung quỹ Nhà nước.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Thành C, Phạm Ngọc S mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

400
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HSST ngày 02/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:32/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về