Bản án 26/2018/HSST ngày 15/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 26/2018/HSST NGÀY 15/08/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2018/HSST ngày 14 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số: 02/2018/HSST- QĐ ngày 31/7/2018, đối với bị cáo:

LƯƠNG NGỌC T - Sinh năm: 1998 - Tại Quảng Nam.

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn T 2, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lương P và bà Lê Thị H;

Tiền án, tiền sự: Không.

Người bị hại: Ông Nguyễn Văn L – Sinh năm 1995.

Trú tại: Thôn L, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị – Vắng mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

01. Ông Lương P – Sinh năm 1974.

Trú tại: Thôn T 2, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam – Có mặt.

02. Ông Tạ Văn T – Sinh năm 1971

Trú tại: Thôn 3, xã H, huyện H, tỉnh B – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08h ngày 08/01/2018, ông Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Jupiter RC, màu trắng – đen, BKS số 86B3-080.72 đến công trình Cocobay, để xe gần bãi xe của công trình (không có người trông coi) để làm việc và quên chìa khóa trên xe. Đến khoảng 09h cùng ngày, Lương Ngọc T là công nhân làm việc tại công trình Cocobay phát hiện xe của anh L để sẵn chìa khóa trên xe nên nảy sinh ý định trộm cắp. Sau đó, T lấy xe của anh L, đem đến bãi xe của công trình Sheraton (thuộc phường H, quận N) cất giấu rồi đi bộ về lại công trình Cocobay tiếp tục làm việc. Khoảng 17h cùng ngày, anh L phát hiện bị mất xe và đến Công an phường H trình báo.

Chiều ngày 10/01/2018, T đi bộ đến công trình Sheraton lấy xe thì phát hiện 01 giấy đăng ký xe mang tên Tạ Văn T, 01 thẻ Ngân hàng Agribank, 01 CMND và giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn L, T cất 01 Giấy đăng ký xe, còn CMND, thẻ Ngân hàng và giấy phép lái xe T vứt vào sọt rác gần đó rồi điều khiển xe đến gặp bố ruột là ông Lương P đang làm việc tại công trình trên đường H, quận H để gửi xe, T nói với ông P là mới mua xe với giá 2.900.000đ rồi đưa xe và giấy tờ xe để ông P có phương tiện về quê. Đến chiều 11/01/2018, T quay lại chỗ ông P lấy xe làm phương tiện đi lại. Ngày 20/3/2018, T sử dụng xe trộm cắp được để đi làm tại công trình Mabble (đường V, phường P, quận S) thì bị anh L phát hiện nên báo Công an phường H đến xử lý.

* Tang vật thu giữ gồm:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Jupiter RC, màu trắng – đen, BKS số: 86B3-080.72, có chìa khóa xe kèm theo.

- 01 giấy đăng ký xe mô tô BKS số: 86B3-080.72 mang tên Tạ Văn T.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số: 17/KHĐG-HĐĐGTS ngày 24/4/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận N kết luận: Giá trị tài sản bị trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Jupiter RC, màu trắng – đen, BKS số 86B3-080.72 (đã qua sử dụng) tại thời điểm tháng 01/2018 là 14.800.000đ.

Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số: 22/ CT-VKS-NHS ngày 14/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận N, TP. Đà Nẵng thì bị cáo Lương Ngọc T bị truy tố về tội: "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn TP. Đà Nẵng thực hành quyền công tố nhà nước vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố Lương Ngọc T về tội danh như đã nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt Lương Ngọc T từ 09 đến 12 tháng tù. Nhưng cho hưởng án treo.

* Về tang vật: Cơ quan CSĐT Công an quận N đã ra Quyết định trả lại cho ông Nguyễn Văn L: 01 xe mô tô nhãn hiệu Jupiter RC, màu trắng – đen, BKS số: 86B3-080.72; 01 giấy đăng ký xe mô tô 86B3-080.72 mang tên Tạ Văn Thái; 01 chìa khóa xe là đúng pháp luật.

* Về dân sự: Ông Nguyễn Văn L yêu cầu Lương Ngọc T đền bù số tiền 1.235.000đ là tiền ông L bỏ việc làm để đi làm lấy giấy tờ mà T đã vứt vào sọt rác và tiền hư hỏng xe ông L đã sửa chữa. T đã khắc phục xong nên không đề cập đến.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Khoảng 09h ngày 08/01/2018, tại khu vực gần bãi xe của công trình Cocobay thuộc phường H, quận N, thành phố Đà Nẵng, Lương Ngọc T đã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Jupiter RC, màu trắng – đen, biển kiểm soát: 86B3-080.72 trị giá 14.800.000đ của ông Nguyễn Văn L.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lương Ngọc T đã xâm hại đến khách thể là quyền sở hữu của người khác về tài sản được pháp luật bảo vệ, phạm vào tội: "Trộm cắp tài sản", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như cáo trạng số 22/KSĐT ngày 14/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận N đã truy tố và đề nghị mức hình phạt như trên đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[1] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy:

Lương Ngọc T là người đã trưởng thành, lẽ ra ở tuổi như bị cáo phải cố gắng lao động giúp đỡ gia đình và phấn đấu trở thành công dân có ích cho xã hội. Nhưng bị cáo là người thiếu ý chí phấn đấu muốn thỏa mãn nhu cầu cá nhân bằng thành quả lao động của người khác nên bị cáo đã đi vào con đường phạm tội. Trong vụ án, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của người bị hại, trộm cắp 01 xe nhãn hiệu Jupiter RC, biển kiểm soát số: 86B3-080.72 trị giá 14.800.000đ của ông Nguyễn Văn L. Hành vi của bị cáo không những gây thiệt hại về tài sản cho người bị hại mà còn làm mất trật tự an ninh tại địa phương. Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và răn đe đối với toàn xã hội.

Song xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng ; tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo; trong quá trình điều tra bị cáo đã cùng bồi thường thỏa đáng cho người bị hại; người bị hại cũng đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên cần áp dụng điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để xét giảm nhẹ cho bị cáo. Từ những nhận định ở trên, HĐXX xét thấy không cần thiết phải xử cách ly bị cáo ra ngoài xã hội mà cần áp dụng Điều 65 BLHS để tạo điều kiện cho bị cáo được cải tạo giáo dục tại địa phương, thể hiện sự khoan hồng của Nhà Nước đối với bản thân bị cáo cũng là thỏa đáng.

Đối với ông Lương P, có hành vi cất giữ xe nhưng không biết đó là xe của Lương ngọc T trộm cắp mà có. Cơ quan CSĐT Công an quận N không xử lý đối với ông P là có cơ sở, nên không đề cập đến.

Đối với ông Nguyễn Văn L là chủ sở hữu xe mô tô Jupiter, BKS số: 86 B3-080.72 (Giấy đăng ký xe mang tên Tạ Văn T), xe này ông L mua của ông Thái vào tháng 11/2012 nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Cơ quan CSĐT Công an Q. Ngũ Hành Sơn đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với ông Nguyễn Văn L về hành vi “không làm thủ tục đăng ký sang tên xe” là có căn cứ nên không đề cập đến trong vụ án này.

[2] Về tang vật: Cơ quan CSĐT Công an Q. Ngũ Hành Sơn đã ra Quyết định trả lại cho ông Nguyễn Văn L: 01 xe mô tô nhãn hiệu Jupiter RC, màu trắng – đen, BKS số: 86B3-080.72; 01 giấy đăng ký xe mô tô 86B3-080.72 mang tên Tạ Văn T; 01 chìa khóa xe là đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[3] Về dân sự: Ông Nguyễn Văn L yêu cầu Lương Ngọc T đền bù số tiền 1.235.000đ là tiền ông L bỏ việc làm để đi làm lấy giấy tờ mà T đã vứt vào sọt rác và tiền hư hỏng xe ông L đã sửa chữa. T đã khắc phục xong, ông L không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và những  người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại gì nên HĐXX không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Lương Ngọc T phạm tội: " Trộm cắp tài sản" Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lương Ngọc T 09 (chín) tháng tù. Nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Nam giám sát giáo dục trong suốt thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi làm việc thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo.

[2] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa biết, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Riêng những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

661
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2018/HSST ngày 15/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:26/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:15/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về