Bản án 320/2018/HSST ngày 06/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 320/2018/HSST NGÀY 06/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 315/2018/TLST-HS ngày 05 tháng 10 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 316/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H (tên gọi khác B), sinh năm 1993; thường trú: Thôn 2, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn O, sinh năm 1963 và bà Bùi Thị D (đã mất); tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 08/2013/HSST ngày 12/3/2013 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 18 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong ngày 09/12/2014; Bản án số 124/2018/HSST ngày 20/7/2018 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm 09 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản, hiện đang chấp hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Dương, có yêu cầu xét xử vắng mặt.

Bị hại: Anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1963; địa chỉ: Số 22/9 khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 00 phút ngày 09/01/2018, Nguyễn Văn H qua phòng trọ của Nguyễn Duy V ở khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương chơi và nhờ V sử dụng xe mô tô biển số 36P2-892.19 chở đến nhà bạn ở khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Khi đến khu dân cư khu phố T, Nguyễn Văn H đi tìm nhà bạn còn V đi về. Nguyễn Văn H đi bộ khoảng 01 km, thấy nhà số 22/9, khu phố T của anh Nguyễn Minh T có cửa sổ trên lầu không đóng, H lấy 01 cái thang ở công trình xây dựng đối diện rồi leo lên lầu 01. Nguyễn Văn H thấy 02 người đàn ông đang ngủ say nên lấy 01 điện thoại Nokia C5 đang sạc pin bỏ vào túi quần rồi theo cầu thang đi xuống tầng dưới lục túi quần tây màu xanh trên ghế lấy 250.000 đồng bỏ vào túi quần. H lấy chùm chìa khóa treo ở tường mở cửa nhà, cổng và mở khóa xe mô tô hiệu SYM Attila màu vàng, biển số 61D1-334.06 dựng trong nhà, dắt ra ngoài điều khiển về phòng trọ ở khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương cất giấu. Đến ngày 11/01/2018, Công an thị xã T kiểm tra hành chính đã thu giữ số tài sản trên.

Theo kết luận định giá số 40/BB.ĐG ngày 16/3/2018 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An kết luận: Xe mô tô hiệu SYM, số loại Attila màu vàng, biển số 61D1- 334.06, số khung 11CDCD013896, số máy VUAC-D013896 có trị giá 11.000.000 đồng, điện thoại Nokia C5 màu đen trị giá 100.000 đồng; số tiền 250.000đ. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 11.350.000 đồng, đã thu hồi tài sản trả lại cho bị hại; số tiền 250.000đ không thu hồi được.

Quá trình điều tra, bị cáo và bị hại không có ý kiến gì về kết luận định giá tài sản trên.

Tại Cáo trạng số 321/CT-VKS ngày 04 tháng 10 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù và tổng hợp hình phạt 02 năm 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản tại bản án số 124/2018/HSST ngày 20/7/2018 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 250.000đ nên không đề nghị xem xét.

Tại đơn yêu cầu xét xử vắng mặt ngày 24/10/2018, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; bị hại cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Bị cáo có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt bị cáo.

 [2] Về nội dung: Khoảng 00 giờ 00 phút ngày 09/01/2018, tại nhà số 22/9, khu phố T của anh Nguyễn Minh T, Nguyễn Văn H dùng thang ở công trình xây dựng đối diện rồi leo lên lầu 01 vào trong phòng ngủ lấy 01 điện thoại Nokia C5 đang sạc pin bỏ vào túi quần rồi theo cầu thang đi xuống tầng dưới lục túi quần tây màu xanh trên ghế lấy 250.000 đồng bỏ vào túi quần. H lấy chùm chìa khóa treo ở tường mở cửa nhà, cổng và mở khóa xe mô tô hiệu SYM Attila màu vàng, biển số 61D1-334.06 dựng trong nhà, dắt ra ngoài điều khiển về phòng trọ ở khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương cất giấu. Đến ngày 11/01/2018, Công an thị xã T kiểm tra hành chính đã thu giữ số tài sản trên.

Theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn viphạm;

đ) Tài sản là di vật, cổ vật.

Hành vi của bị cáo lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại Nokia C5, màu đen trị giá 100.000 đồng; 01 xe mô tô hiệu SYM, số loại Attila màu vàng, biển số 61D1- 334.06, số khung 11CDCD013896, số máy VUAC-D013896 trị giá 11.000.000 đồng và số tiền 250.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cáo trạng số 321/CT-VKS ngày 04 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

 [3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy là ít nghiêm trọng, nhưng đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại gây mất trật tự trị an tại địa phương. Về ý thức chủ quan, bị cáo nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì tham lam tư lợi đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo đủ để cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

 [4] Về nhân thân: Bị cáo là người không có nghề nghiệp, nhân thân xấu.

 [5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

 [6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Tại cơ quan điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bịcáo.

 [7] Về trách nhiệm dân sự: Đối với số tiền 250.000 đồng bị cáo chiếm đoạt của bị hại; theo đơn yêu cầu xét xử vắng mặt ngày 18/10/2018, bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền trên, đây là sự tự nguyện của bị hại nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

 [8] Xét bị cáo Nguyễn Văn H hiện đang chấp hành án tại Trại giam An Phước theo bản án số 124/2018/HSST ngày 20/7/2018 của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, hành vi phạm tội lần này của bị cáo xảy ra trước khi có bản án trên nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự, cần tổng hợp hình phạt của bản án trên với hình phạt của tội mới. Quan điểm đề nghị như đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.

 [9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H (tên gọi khác: B) phạm tội Trộm cắp tài sản. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù về Tội trộm cắp tài sản tại Bản án số 124/2018/HSST ngày 20/7/2018 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương, tổng hợp chung hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành là 04 (bốn) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/01/2018.2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị hại Nguyễn Minh T không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 250.000 (hai trăm năm mươi) đồng.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 320/2018/HSST ngày 06/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:320/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về