Bản án 313/2019/HS-ST ngày 04/10/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 313/2019/HS-ST NGÀY 04/10/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 288/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 328/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Vũ Thị Ngọc L, sinh năm 1970 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Số 52/14, đường H, khu phố N, phường H Ph, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Vũ Văn B (đã chết) và bà Phan Thị H (đã chết); bị cáo có 06 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1956, nhỏ nhất sinh năm 1975; bị cáo có 02 con ruột, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 02/6/2019 cho đến nay, có mặt.

- Bị hại: Ông Huỳnh M, sinh năm 1953; thường trú: Số 58/2/1 đường số N, khu phố H, phường L Tr, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Đặng Thị H, sinh năm 1984; thường trú: Số 58/2/1 đường số N, khu phố H, phường L Tr, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

2. Bà Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1966; thường trú: Số 45/5 đường Ph V Ch, Phường MB, quận G V, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Thị Ngọc L và ông Huỳnh M quen biết nhau từ năm 2017 và có quan hệ tình cảm với nhau. Khoảng 16 giờ ngày 30/01/2019, L điện thoại rủ ông M đi nhậu, sau đó ông M điều khiển xe mô tô biển số 55X7-0985 từ nhà tại khu phố N, phường L X, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh đến nhà L tại phường H Ph, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh để chở L. Khi đến gặp L, ông M chở L đi mua mồi nhậu rồi đến thuê phòng 108 nhà nghỉ “Th Nh” tại khu phố B Đ 2, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Tại phòng 108 nhà nghỉ “Th Nh” ông M lấy mồi nhậu và rượu cùng L ăn uống, khoảng 30 phút thì hết thức ăn nên M đưa chìa khóa xe cho L đi mua mồi về nhậu tiếp, sau khi đưa chìa khóa xe mô tô cho L thì M vào nhà vệ sinh tắm. Lúc này, L thấy bóp tiền của ông M để trên giường nên L mở bóp lấy giấy đăng ký xe mô tô biển số 55X7-0985 mang tên Đặng Thị H rồi xuống bãi xe của nhà nghỉ “Th Nh” lấy xe mô tô hiệu Honda Lead màu đen biển số 55X7-0985 điều khiển đến gần cửa khẩu M B, tỉnh Tây Ninh cầm cho một người phụ nữ tên Th (chưa rõ nhân thân, lai lịch) được 5.000.000 đồng. Khoảng tháng 3/2019, L chuộc lại xe và đem cầm cố cho chị Nguyễn Thị Kim L được 6.000.000 đồng, đã tiêu xài cá nhân hết. Ngày 02/6/2019, ông Huỳnh M làm đơn tố cáo Vũ Thị Ngọc L có hành vi chiếm đoạt xe mô tô hiệu Honda Lead màu đen biển số 55X7-0985 đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương, cùng ngày Vũ Thị Ngọc L đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Lead màu đen biển số 55X7-0985.

Căn cứ Kết luận định giá số: 129/BB.ĐG ngày 10/6/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương kết luận: 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Lead màu đen, số khung: 099Y-078297, số máy: 24E-0092101, biển số 55X7- 0985 trị giá 10.000.000 đồng.

Đi với một người phụ nữ tên Th cầm xe cho L, hiện không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

Đi với Nguyễn Thị Kim L cầm cố xe 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Lead màu đen biển số 55X7-0985 không biết L phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương không đề cập xử lý.

Tại Cáo trạng số: 309/CT-VKS ngày 26 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Vũ Thị Ngọc L về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Vũ Thị Ngọc L về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Vũ Thị Ngọc L từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

* Về biện pháp tư pháp: Buộc bị cáo Vũ Thị Ngọc L nộp 6.000.000 đồng, là tiền thu lợi bất chính để sung vào Ngân sách Nhà nước.

* Về trách nhiệm dân sự: Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Lead màu đen biển số 55X7-0985 đã thu hồi trả lại cho bị hại Huỳnh M, bị hại M không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, xử lý vật chứng và về trách nhiệm dân sự đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Ngày 30/01/2019 tại nhà nghỉ “Th Nh” tại khu phố B Đ 2, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, trong khi ăn nhậu do hết thức ăn nên bị hại Huỳnh M giao xe mô tô hiệu Honda Lead màu đen, biển số 55X7-0985 cho bị cáo Vũ Thị Ngọc L đi mua thức ăn, sau đó bị cáo L đem xe đi cầm cố để lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Căn cứ Kết luận định giá số: 129/BB.ĐG ngày 10/6/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương kết luận: 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Lead màu đen, số khung: 099Y-078297, số máy: 24E-0092101, biển số 55X7-0985 trị giá 10.000.000 đồng.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo khi nhận tài sản của bị hại rồi bỏ trốn nhằm chiếm đoạt 01 xe mô tô hiệu Honda Lead màu đen, biển số 55X7-0985 có trị giá 10.000.000 đồng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản’’ theo quy định điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 309/CT – VKS ngày 26 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên truy tố bị cáo Vũ Thị Ngọc L về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy ít nghiêm trọng nhưng đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Về nhận thức bị cáo hoàn toàn biết hành vi nhận tài sản của bị hại rồi bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản của bị hại là trái pháp luật nhưng vì lòng tham, muốn kiếm tiền nhanh chóng không phải lao động để phục vụ nhu cầu bản thân mà bị cáo cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đồng thời sau khi phạm tội bị cáo đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình . Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt thể hiện bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự và người lao động nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét các bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nhưng xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo muốn kiếm tiền nhanh chóng để phục vụ nhu cầu của bản thân mà bị cáo cố tình chiếm đoạt tài sản của bị hại. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[9] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, áp dụng phạt tù cũng đủ sức ren đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[10] Về biện pháp tư pháp: Buộc bị cáo Vũ Thị Ngọc L nộp 6.000.000 đồng, là tiền thu lợi bất chính để sung vào Ngân sách Nhà nước.

[11] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Lead màu đen biển số 55X7-0985 đã thu hồi trả lại cho bị hại Huỳnh M, bị hại M không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[12] Đối với một người phụ nữ tên Th cầm xe cho L, hiện không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau và đối với Nguyễn Thị Kim L cầm cố xe 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Lead màu đen biển số 55X7-0985 không biết L phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương không đề cập xử lý là đúng theo quy định của pháp luật.

[13] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, biện pháp tư pháp và trách nhiệm dân sự là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[14] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Thị Ngọc L phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Vũ Thị Ngọc L 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/6/2019.

2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Buộc bị cáo Vũ Thị Ngọc L nộp 6.000.000 đồng để sung vào Ngân sách Nhà nước.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Vũ Thị Ngọc L phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 313/2019/HS-ST ngày 04/10/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:313/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về