TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 312/2019/HS-ST NGÀY 31/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 31 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 312/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 319/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:
Trần Văn N - sinh năm 1993 tại Thanh Hóa. Nơi cư trú: phố K, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: LĐTD; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn T và bà Nguyễn Thị H; Tiền án, tiền sự: chưa; tạm giữ: ngày 02/7/2019, tạm giam: ngày 11/7/2019, “có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 16h00’ ngày 02/7/2019 tại khu vực trạm bơm đường Đại Lộ N, xã Q, thành phố T, tổ công tác đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an thành phố Thanh Hóa phát hiện bắt quả tang Trần Văn N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra, thu giữ của N 01 gói nilong màu trắng, bên trong chứa 05 viên nén màu xanh. N khai đó là ma túy mua về để sử dụng.
Tại cơ quan điều tra N khai nhận: Do bản thân sử dụng ma túy, nên khoảng 15h ngày 02/7/2019 N đi đến khu vực ngã ba M, xã Q, thành phố T tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây N gặp và mua của một người đàn ông nhưng không biết tên và địa chỉ 05 viên thuốc lắc với giá 2.000.000đ (hai triệu đồng). Đến 16h cùng ngày khi N đang đứng ở trước trạm bơm đường Đại Lộ N, xã Q thì bị Công an phát hiện, bắt giữ.
Tại bản kết luận giám định số 1670/PC09 ngày 05/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh Thanh hoá kết luận: 05 viên nén màu xanh của phong bì niêm phong gửi giám định có tổng khối lượng 1,676 gam (một phẩy sáu bảy sáu). Phòng kỹ thuật hình sự từ chối giám định do vượt quá khả năng nên ngày 06/7/2019 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa trưng cầu giám định bổ sung đến Viện khoa học hình sự Bộ Công an.
Tại bản kết luận giám định số 3806/C09-TT2 ngày 11/7/2018 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: các viên nén màu xanh gửi giám định là ma túy loại MDMA.
Đối với người thanh niên bán ma túy cho N, do N không biết tên và địa chỉ của này nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh xử lý.
Tại bản cáo trạng số 294/CT-VKS ngày 04 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát Nhân dân Thành phố Thanh Hoá truy tố bị cáo Trần Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị HĐXX áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS. Đề nghị xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 24 đến 30 tháng tù.
Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ vụ án thấy đủ cơ sở chứng minh: Vào khoảng 16h00 ngày 02/7/2019, tại khu vực trạm bơm đường Đại Lộ N, xã Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Trần Văn N đã tàng trữ trái phép 05 viên ma túy có tổng khối lượng 1,676 gam loại MDMA.
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi phạm tội của Trần Văn N có đủ các dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, đúng pháp luật.
[3] Tính chất vụ án: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, xâm hại trật tự an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Mặc dù dị cáo biết rõ tác hại của ma túy nhưng do xem thường pháp nên bị cáo đã tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an chung cần phải xử lý nghiêm minh để giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] N thân và trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Mặc dù bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng với tính chất nghiêm trọng của loại tội phạm về ma túy, mức độ hành vi phạm tội thì việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên khi áp dụng hình phạt cần căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
[5] Do bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng, trọng lượng ma túy không lớn, không có tính chất vụ lợi nên không cần phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng: Đối với số ma túy thu của bị cáo được niêm phong bằng phong bì thư là vật nhà nước cấm lưu hành, sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy. Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 136 BLTTHS. Điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”
Xử phạt: Trần Văn N 21 (hai mốt) tháng tù. Thời hạn chấp hành kể từ ngày 02/7/2019.
Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong bằng phong bì thư của Viện khoa học hình sự - Bộ công an có chữ ký chữ viết của Hoàng Thế Thắng, Nguyễn Đức Anh.
Số ma túy trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 236/THA ngày 16/9/2019.
Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST
Bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án đối với khoản tiền án phí theo quy định tại các điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 312/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 312/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về