Bản án 31/2020/HSST ngày 29/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ - TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 31/2020/HSST NGÀY 29/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 4 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 26/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 26/2020/HSST-QĐ ngày 01 tháng 4 năm 2020 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Hòa P (Q); Sinh ngày 26 tháng 9 năm 1996 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT và cư trú: tổ Z, phường Y, quận K, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn X và bà Lê Thị H; có vợ là Trần Thị Thanh T và 01 con sinh năm 2016;

Tiền án, tiền sự: không Nhân thân:

- Bị UBND phường Y, quận K, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định số 11/QĐ-UBND ngày 09/01/2015.

- Bị Công an phường Q, quận L, thành phố Đà Nẵng xử phạt 750.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 120/QĐ-VPHC ngày 27/10/2017.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/11/2019, có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Trần Thị Thanh T - Sinh năm 1998 - Địa chỉ: Tổ J phường G, quận K, thành phố Đà Nẵng. Có mặt

2/ Bà Lê Thị H - Sinh năm 1972 - Địa chỉ: Tổ F phường S, quận K, thành phố Đà Nẵng. Có mặt

3/ Ông Phạm Phong E - Sinh năm 1994 - Địa chỉ: Tổ M phường S, quận K, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt

* Người làm chứng: Ông Phan Chí D - Sinh năm 1995 - Địa chỉ: Tổ O phường A, quận L, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ ngày 24/11/2019, Nguyễn Hòa P ngồi chơi với Đinh Phú N tại căn nhà trống bên cạnh địa chỉ Số W đường R phường S, thành phố Đà Nẵng. Do có nhu cầu sử dụng ma túy, P điều khiển xe môtô hiệu Damsel biển kiểm soát 43D1-79.401 đến khu vực cây xăng ngã tư đường Nguyễn Văn Linh - Nguyễn Tri Phương, thành phố Đà Nẵng tìm gặp và mua của một người tên Đ hai gói ma túy đá với giá 970.000đồng. Mua ma túy xong, P quay về căn nhà trống nhưng không lấy ma túy ra sử dụng mà ngồi với N một lúc rồi rời đi. Khi P quay trở lại, lúc này đã có thêm Phan Chí D đến chơi, sau đó N đi về trước, còn lại P và D ngồi với nhau, P vẫn chưa lấy ma túy ra sử dụng. Đến khoảng 00 giờ 40 phút ngày 25/11/2019, Công an phường S kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang, thu giữ trong túi quần phía trước bên trái của P đang mặc: 02 gói nilong kích thước 4cm x 6,5cm và 7cm x 7 cm bên trong đều chứa tinh thể màu trắng, theo P khai nhận là ma túy tổng hợp dạng đá, được niêm phong ký hiệu G1.

Theo Bản kết luận giám định số 326/GĐ-MT ngày 29/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: "Tinh thể màu trắng trong niêm phong ký hiệu G1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng tinh thể: 2,568gam".

Kết quả thử test, Nguyễn Hòa P, Đinh Phú N, Phan Chí D dương tính với chất ma túy.

* Tang vật thu giữ:

- 02 gói nilong kích thước 4cm x 6,5cm và 7cm x 7 cm bên trong đều chứa tinh thể màu trắng, được niêm phong ký hiệu G1;

- 01 nắp nhựa bên trên có gắn 01 nỏ thủy tinh và 01 ống hút nhựa;

- 01 điện thoại di động màu đen bạc, mặt sau có chữ iphone số imei: 354455067072668 gắn sim số: 0905692996;

- 01 xe môtô nhãn hiệu Damsel màu đen, biển kiểm soát 43D1-79401, số máy C100MPE0051463, số khung C100MP0051463.

* Tại Bản cáo trạng số: 37/CT-VKSTK ngày 05/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê đã truy tố bị cáo Nguyễn Hòa P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Hòa P từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

- Về xử lý tang vật: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để tuyên:

Tch thu tiêu hủy: Mẫu vật hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 326/GĐ-MT ngày 29/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng; 01 nắp nhựa bên trên có gắn 01 nỏ thủy tinh và 01 ống hút nhựa.

Trả cho chị Trần Thị Thanh T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu iphone màu cam đen có số imei: 013837004185112 gắn sim số: 0905938933.

Tm giao cho bà Lê Thị H quản lý, sử dụng xe môtô nhãn hiệu Damsel biển kiểm soát 43D1-79401.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hòa P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận gì với phần luận tội của Kiểm sát viên, đồng thời xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, tạo điều kiện cho bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét về hành vi phạm tội thì thấy: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Căn cứ vào biên bản phạm tội quả tang và các lời khai khác phù hợp với chứng cứ tài liệu điều tra thu thập có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định:

Vào lúc 00 giờ 40 phút ngày 25/11/2019, tại căn nhà trống bên cạnh địa chỉ số Số W đường R phường S, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Hòa P bị bắt quả tang có hành vi tàng trữ trái phép ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng 2,568 gam nhằm mục đích sử dụng cá nhân. Hành vi của Nguyễn Hòa P thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê truy tố.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo thì thấy:

Nguyễn Hòa P là người đã trưởng thành, bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy đối với bản thân, cộng đồng nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu sử dụng cá nhân, bị cáo vẫn bất chấp, cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy.

Hành vi của bị cáo không chỉ xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của nhà nước đối với chất gây nghiện, gây tổn hại đến sức khỏe và kinh tế mà còn ảnh hưởng đến trị an tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính hai lần về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy vào các năm 2015 và 2017 nhưng vẫn không lấy đó làm bài học để sửa đổi bản thân mà vẫn tiếp tục lao vào con đường sử dụng ma túy nên đối với lần phạm tội này nhất thiết phải xử lý nghiêm và cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo, cũng như phòng ngừa tội phạm.

Tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, Nguyễn Hòa P đã thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do vậy cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần cho bị cáo khi cân nhắc mức hình phạt cụ thể.

Xét nội dung đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê về tội danh, điều khoản luật và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt đối với bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[4] Về hình phạt bổ sung: Tại phiên tòa Kiểm sát viên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với Nguyễn Hòa P. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập không ổn định, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Đối với đối tượng tên Đ đã có hành vi bán ma túy cho P hiện không rõ lai lịch, địa chỉ nên không xem xét trong vụ án này.

[6] Khi bị bắt tạm giữ, qua xét nghiệm Nguyễn Hoài P, Đinh Phú N, Phan Chí D dương tính với ma túy nhưng Công an quận Thanh Khê đã xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của P, N và D nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[7] Về tang vật thu giữ của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Đi với mẫu vật hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 326/GĐ-MT ngày 29/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành; 01 nắp nhựa bên trên có gắn 01 nỏ thủy tinh và 01 ống hút nhựa không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với điện thoại di động nhãn hiệu iphone màu cam đen có số imei 013837004185112 gắn sim số 0905938933 là tài sản cá nhân của chị Trần Thị Thanh T, chị T cho cho chồng là Nguyễn Hòa P mượn sử dụng, không biết việc P mua và cất giữ ma túy nên cần trả điện thoại cho chị T.

Đi với xe môtô nhãn hiệu Damsel biển kiểm soát 43D1-79401 đứng tên chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị B, hiện bà B đã ra nước ngoài sinh sống. Chiếc xe này bà Phết đã cho bà Lê Thị H là mẹ của Nguyễn Hòa P nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Quá trình điều tra không lấy được lời khai của bà B, nhưng anh Phạm Phong E là con trai của bà B cũng xác nhận việc bà B cho chị H xe. Ngày 24/11/2019, bà H cho Nguyễn Hòa P mượn xe sử dụng cá nhân, không biết việc P mượn xe đi mua ma túy. Do vậy cần tạm giao chiếc xe trên đây cho bà Lê Thị H quản lý, sử dụng. Sau này các bên liên quan nếu tranh chấp có quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác.

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hòa P phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hòa P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

1. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt Nguyễn Hòa P: 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù kể từ ngày 25/11/2019.

2. Xử lý tang vật: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: mẫu vật hoàn trả sau giám định được niêm phong trong một bì niêm phong số 326/GĐ-MT ngày 29/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng; một nắp nhựa bên trên có gắn một nỏ thủy tinh và một ống hút nhựa.

- Trả cho chị Trần Thị Thanh T một điện thoại di động nhãn hiệu iphone màu cam đen có số imei: 013837004185112 gắn sim số: 0905938933.

- Tạm giao cho bà Lê Thị H quản lý, sử dụng xe môtô nhãn hiệu Damsel biển kiểm soát 43D1-79401, số máy C100MPE0051463, số khung C100MP0051463.

(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/32019).

3/ Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội buộc Nguyễn Hòa P phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí HSST.

4/ Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc từ ngày bản án được niêm yết tại địa phươnghương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2020/HSST ngày 29/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về