Bản án 31/2019/HS-ST ngày 19/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 31/2019/HS-ST NGÀY 19/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 9 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 33/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2019/QĐXXST-HS ngày 06/9/2019 đối với bị cáo:

Hồ Quang A, sinh ngày 22 tháng 4 năm 1999; tại xã C, huyện S, tỉnh Q. Nơi cư trú: Thôn X, xã C, huyện S, tỉnh Q; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Quang D, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1957; bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án: Có 01 tiền án, ngày 07/8/2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam xử phạt 03 tháng 26 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: 01 tiền sự, ngày 22/02/2018, bị cáo bị Công an thị trấn Đông Phú, huyện Quế Sơn ra Quyết định xử phạt hành chính số 16/QĐ-XPVPHC về hành vi “Sử dụng trái phép tài sản của người khác”. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Mai Xuân T, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn P, xã Q, huyện S, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Giáp Văn H, sinh năm 1996; địa chỉ: Thôn X, xã C, huyện S, tỉnh Q. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Trần Văn C, sinh năm 1972; địa chỉ: Tổ C, thị trấn P, huyện S, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 23/01/2019, bị cáo Hồ Quang A sau khi tan ca làm tại Công ty Germton thuộc xã Hương An, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam; bị cáo quá giang xe của một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) để về nhà, khi đến ngã ba chợ Nón thuộc xã Quế Thuận, huyện Quế Sơn bị cáo xuống xe và tiếp tục quá giang xe của anh Giáp Văn H. Trên đường đi, bị cáo rủ H vào quán trước cổng Trung tâm Y tế Quế Sơn để nhậu và H đồng A. Khi đến quán bán trứng vịt lộn trước cổng Bệnh viện Quế Sơn, bị cáo xuống xe và nói với H “Mi vào quán trứng lộn chờ tau tí, tau lên trên này cắt trộm dây ống đồng”, H trả lời: “Mi làm chi đó làm tau không biết”. Sau đó, bị cáo đi bộ đến tiệm cắt tóc “A H” của anh Mai Xuân T, thấy tiệm đóng cửa nên bị cáo đi vòng ra phía sau thì thấy cửa sau của tiệm đóng nhưng cửa bị hỏng nên bị cáo dùng tay đẩy cửa đi vào bên trong tiệm, bị cáo trộm cắp 03 quần Jean dài, 01 đôi giày bằng da để trên bàn rồi đem ra phía sau tiệm cắt tóc mặc thử nhưng không vừa nên đã vứt số tài sản này ở phía sau hè của tiệm cắt tóc (cách tiệm cắt tóc khoảng 02 mét). Sau đó, bị cáo quay lại tiệm cắt tóc và trèo lên tường dùng tua vít, kìm và mỏ lết mà bị cáo đã chuẩn bị sẵn trước đó để tháo hết các con ốc vít của cục nóng điều hòa (hiệu Mitsubishi) ra khỏi vị trí lắp đặt. Khi bị cáo đang chuẩn bị đưa cục nóng điều hòa xuống đất để đem đi bán thì bị anh Trần Văn C phát hiện bắt giữ.

Tại Biên bản định giá và Kết luận định giá ngày 12/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quế Sơn kết luận: 01 cục nóng của máy lạnh hiệu Mitsubishi có giá trị định giá là 2.450.000 đồng; 03 quần Jean có giá trị định giá là 675.000 đồng; 01 đôi giày bằng da có giá trị định giá là 630.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp là 3.755.000 đồng.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm:

+ 01 kìm màu đỏ đen, dài khoảng 20 cm; 01 tua vít bằng kim loại chữ T, dài khoảng 10 cm; 01 mỏ lết bằng kim loại, dài khoảng 25 cm; 01 thanh kim loại màu trắng, dài khoảng 40 cm; 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu xanh.

+ 01 cục nóng của máy lạnh hiệu Mitsubishi; 03 quần Jean và 01 đôi giày bằng da.

Tại Cáo trạng số 32/CT-VKSQS ngày 08 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam truy tố bị cáo Hồ Quang A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố tại bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 57 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hồ Quang A từ 06 đến 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử lý các vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, phù hợp với những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và Cáo trạng của Viện kiểm sát. Bị cáo không có A kiến tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người bị hại và người làm chứng. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy sự vắng mặt của những người này không gây trở ngại cho việc xét xử và lời khai của những người này đã có trong hồ sơ vụ án nên căn cứ vào Điều 292, 293 và Điều 299 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt họ tại phiên tòa.

[2] Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có A kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[3] Về tội danh: Kết quả tranh tụng tại phiên tòa xác định được: Khoảng 23 giờ ngày 23/01/2019, bị cáo Hồ Quang A đã có hành vi lén lút đi vào cửa sau tiệm cắt tóc “A H” của anh Mai Xuân T trộm cắp 01 cục nóng của máy lạnh hiệu Mitsubishi, 03 quần Jean và 01 đôi giày bằng da với tổng giá trị là 3.755.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội“Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng số 32/CT- VKSQS ngày 08 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo A là người có đủ khả năng nhận thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng do lười lao động và thích hưởng thụ trên thành quả lao động của người khác nên bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, lén lút vào tiệm cắt tóc của anh Mai Xuân T trộm cắp 01 cục nóng của máy lạnh hiệu Mitsubishi, 03 quần Jean và 01 đôi giày bằng da với tổng giá trị là 3.755.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác và làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm minh, tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung nên nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Ngày 22/02/2018, bị cáo bị Công an thị trấn Đông Phú, huyện Quế Sơn ra Quyết định xử phạt hành chính số 16/QĐ-XPVPHC về hành vi “Sử dụng trái phép tài sản của người khác”. Ngày 07/8/2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam xử phạt 03 tháng 26 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/8/2018, đến ngày 23/01/2019 bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản khi chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn có cha bị bệnh hiểm nghèo nên cần xem đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Đối với hành vi của Giáp Văn H: H biết bị cáo đi trộm cắp tài sản, H có ngăn cản và trả lời: “Mi làm chi đó làm tau không biết” nhưng bị cáo vẫn cố A thực hiện tội phạm, giữa H và bị cáo không có sự bàn bạc với nhau; đồng thời H không thực hiện hành vi trộm cắp cùng với bị cáo, nên hành vi của H không cấu thành tội trộm cắp tài sản. Bị cáo bị truy tố theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự nên hành vi của H không cấu thành tội không tố giác tội phạm. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, anh Mai Xuân T đã nhận lại toàn bộ tài sản và không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[8] Về xử lý vật chứng:

- 01 kìm màu đỏ đen, dài khoảng 20 cm; 01 tua vít bằng kim loại chữ T, dài khoảng 10 cm; 01 mỏ lết bằng kim loại, dài khoảng 25 cm; 01 thanh kim loại màu trắng, dài khoảng 40 cm của bị cáo là công cụ dùng vào việc phạm tội; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

- 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu xanh của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự là phù hợp.

- 01 cục nóng máy lạnh hiệu Mitsubishi, 03 quần Jean và 01 đôi giày bằng da; tất cả đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Mai Xuân T, anh T không có A kiến gì nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố: Bị cáo Hồ Quang A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Hồ Quang A 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tuyên:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) kìm màu đỏ đen, dài khoảng 20 cm; 01 (một) tua vít bằng kim loại chữ T, dài khoảng 10 cm; 01 (một) mỏ lết bằng kim loại, dài khoảng 25 cm; 01 (một) thanh kim loại màu trắng, dài khoảng 40 cm.

Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobell màu xanh.

(Vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 30/8/2019).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; buộc bị cáo Hồ Quang A phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (19/9/2019); người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HS-ST ngày 19/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:31/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về