Bản án 31/2019/HSST ngày 11/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HC - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 31/2019/HSST NGÀY 11/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận HC - số 24 đường Hoàng Văn Thụ, quận HC, thành phố Đà Nẵng tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2019/HSST ngày 08 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2019/HSST-QĐ ngày 28 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Ngô Văn D. Tên gọi khác: Không có. Giới tính: Nam. Sinh ngày: 25/08/1999 tại Đà Nẵng. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn B, xã H, huyện V, TP. Đà Nẵng. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông.

Trình độ học vấn: 09/12. Con ông Ngô Văn Q (còn sống) và bà Đặng Thị H (chết). Gia đình có 02 người con, bị cáo là con đầu, chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 03/12/2018 đến nay tại Trại tạm giam Công an TP. Đà Nẵng. (có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Ngô Văn Q; sinh năm 1971. Địa chỉ: Thôn B, xã H, huyện V, TP Đà Nẵng. (vắng mặt)

* Người chứng kiến: Ông Huỳnh Tâm Tr; sinh năm 1981. Địa chỉ: Tổ 12, phường C, quận HC, TP Đà Nẵng. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và trong quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 00 ngày 03/12/2018, tại ngã tư đường Phan Đăng Lưu – 02 tháng 09, thuộc phường C, quận HC, TP. Đà Nẵng, đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an quận HC, TP.Đà Nẵng phát hiện và bắt quả tang Ngô Văn D đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ của D:

- 01 (một) gói nilong màu trắng, kích thước 03cm x 03cm bên trong có chứa 02 viên nén hình tròn, màu xanh, có ký hiệu LV thu giữ trong túi áo khoác phía trước, bên phải mà Ngô Văn D đang mặc, được niêm phong, ký hiệu là “A1”.

- 01 (một) điện thoại di động màu đen – bạc, có dòng chữ IPHONE, imei: 352066069044225, bên trong lắp sim số: 0935.067.409.

- 01 (một) xe máy có dòng chữ Winner, màu trắng đen, BKS: 43K1- 405.21, số khung: RLHKC2609GY335451.

- Tiền VNĐ: 2.300.000 đồng.

* Theo kết luận giám định số: 245/GĐ-MT ngày 07/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Đà Nẵng, kết luận:

- Các viên nén hình tròn, màu xanh, có chữ “LV” trong mẫu niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy loại Ketamine, có khối lượng: 1,027 gam.

- Hoàn trả lại đối tượng giám định: Không. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Quá trình điều tra, từ lời khai của Ngô Văn D và các chứng cứ khác xác định: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên vào khoảng 00 giờ 00 ngày 03/12/2018, D liên lạc với 01 người thanh niên (không xác định họ tên, địa chỉ) dùng số điện thoại: 0935.484.813 để hỏi mua 03 viên ma túy, nam thanh niên đồng ý và hẹn giao ma túy tại khu vực trường Sky Line, đường Th, TP. Đà Nẵng. Sau khi lấy ma túy về và sử dụng được 01 viên thì thấy không đúng với chất lượng, nên D liên lạc lại với thanh niên trên để đổi lại. Nam thanh niên trên đồng ý và hẹn gặp ngã tư đường L – 02 tháng 09, thuộc phường C, quận HC, TP. Đà Nẵng để đổi lại cho D. Đến khoảng 19 giờ 00 cùng ngày, D và người bạn tên B (không xác định họ tên, địa chỉ) điều khiển xa máy Winner, màu trắng đen, BKS: 43K1-405.21 đến tại địa chỉ trên thì bị lực lượng Công an dừng xe kiểm tra, lúc này Báu bỏ chạy còn D vẫn còn ngồi trên xe. Sau đó D bị Công an phát hiện, bắt quả tang như đã nêu trên.

Trước đó vào tháng 11/2018, Ngô Văn D cũng đã liên hệ hỏi mua 02 viên thuốc lắc với giá 800.000 đồng từ người thanh niên trên và hẹn giao dịch tại khu vực Bệnh viện Vinmec TP. Đà Nẵng để sử dụng.

Quá trình điều tra, Ngô Văn D đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. 

Xử lý vật chứng: Chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự quận HC vật chứng sau:

- 01 (một) điện thoại di dộng màu đen – bạc, có dòng chữ IPHONE, Imei: 352066069044225, bên trong lắp sim số: 0935.067.409.

- Tiền Việt Nam đồng: 2.300.000 đồng (tiền cá nhân của D).

Với nội dung trên, tại Cáo trạng số 38/CT-VKS ngày 07.3.2019 Viện kiểm sát nhân dân quận HC đã truy tố: Ngô Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, trên cơ sở việc hỏi và tranh luận giữa những người tham gia tố tụng công khai, dân chủ và không bị hạn chế,

- Bị cáo Ngô Văn D thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng người, không oan.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

+ Tuyên bố: Bị cáo Ngô Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng điểm g, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 xử phạt: Bị cáo Ngô Văn D từ 12 tháng đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về xử lý vật chứng: đề nghị HĐXX căn cứ điểm Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, HĐXX:

- Tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di dộng màu đen – bạc, có dòng chữ IPHONE, Imei: 352066069044225, bên trong lắp sim số: 0935.067.409

- Tuyên trả cho bị cáo Ngô Văn D số tiền 2.300.000 đồng.

- Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Winner, màu đen, BKS: 43K1- 405.21, số khung: RLHKC2609GY335451, số máy: KC26E1181874 chủ sở hữu là ông Ngô Văn Q (SN: 1971; HKTT: xã H, huyện V, TP. Đà Nẵng) – cha ruột của Ngô Văn D. Do ông Q đi làm ăn xa nên cho D mượn xe để làm phương tiện đi lại hằng ngày, ông Q không biết D sử dụng xe máy để đi mua ma túy về sử dụng nên Cơ quan CSĐT Công an quận HC trả lại xe cho ông Ngô Văn Q là có cơ sở.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy được lỗi lầm của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận HC, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận HC, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo Ngô Văn D đã thừa nhận khoảng 19 giờ 00 ngày 03/12/2018, tại ngã tư đường L – 02 tháng 09, thuộc phường C, quận HC, TP. Đà Nẵng, đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an quận HC, TP. Đà Nẵng phát hiện và bắt quả tang Ngô Văn D đang tàng trữ 1,027 gam ma túy loại Ketamin để sử dụng.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án cũng như quá trình tranh luận tại phiên tòa. Do đó HĐXX có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm g, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 như cáo trạng số 38/CT-VKS ngày 07.3.2019 của Viện kiểm sát quận HC, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến quyền quản lý độc quyền các chất ma túy của nhà nước mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội trên trên địa bàn TP Đà Nẵng. HĐXX thấy cần xét xử bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì thấy: Bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bà nội bị cáo là người có công cách mạng, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự sẽ được Hội đồng xét xử áp dụng để xem xét khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng...”, do đó, bị cáo có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy, bị cáo không có công việc ổn định, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, HĐXX xử lý như sau:

Đối với 01 (một) điện thoại di dộng màu đen-bạc, có dòng chữ IPHONE, Imei: 352066069044225, bên trong lắp sim số: 0935.067.409 là phương tiện dùng vào việc phạm tội của bị cáo nên cần tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Đối với số tiền 2.300.000 đồng là tiền cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên HĐXX thấy cần tuyên trả lại cho bị cáo.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Winner, màu đen, BKS: 43K1-405.21, số khung: RLHKC2609GY335451, số máy: KC26E1181874 chủ sở hữu là ông Ngô Văn Q (SN: 1971; HKTT: xã H, huyện V, TP. Đà Nẵng) – cha ruột của Ngô Văn D. Do ông Q đi làm ăn xa nên cho D mượn xe để làm phương tiện đi lại hằng ngày, ông Q không biết D sử dụng xe máy để đi mua ma túy về sử dụng nên Cơ quan CSĐT Công an quận HC trả lại xe cho ông Ngô Văn Q là có cơ sở.

[7] Ngoài ra, trong vụ án có người tên là B đi cùng với Ngô Văn D và người thanh niên bán ma túy cho D, hiện chưa xác định được họ tên, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận HC tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

[8] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Từ những nhận định trên, xét thấy lời luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận HC về tội danh và áp dụng các điều luật là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Ngô Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ: Điểm g, khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Xử phạt: Bị cáo Ngô Văn D 12 (mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời gian thụ hình tính từ ngày 03/12/2018.

2. Về xử lý tang vật: Căn cứ điểm Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+Tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di dộng màu đen - bạc, có dòng chữ IPHONE, Imei: 352066069044225, bên trong lắp sim số: 0935.067.409.

+Tuyên trả cho bị cáo Ngô Văn D số tiền 2.300.000 đồng.

(Toàn bộ số tiền và vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận HC, TP Đà Nẵng đang tạm giữ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/4/2018)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Ngô Văn D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo, người tham gia tố tụng có mặt có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ bản án.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HSST ngày 11/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về