Bản án 31/2018/HNGĐ-ST ngày 12/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 31/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 12 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội, xét xử công khai, sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 217/2018/TLST-HNGĐ ngày 10/7/2018, về việc: “Xin ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2018/QĐST-HNGĐ ngày 05/9/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 57/2018/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông NDC, sinh năm 1965

Cư trú tại: Thôn Gia Lâm, xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội.

(Có mặt tại phiên tòa)

Bị đơn:VTM, sinh năm 1963

Cư trú tại: Thôn Trung Màu, xã Trung Màu, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện vụ án xin ly hôn đề ngày 15/5/2018, bản tự khai và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, Nguyên đơn ông NDC trình bầy:

Ông NDC và bà VTM kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có sự đồng ý của hai bên gia đình. Ông NDC và bà VTM có làm thủ tục Đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội ngày 04 tháng 12 năm 1987. Sau khi kết hôn, ông NDC và bà VTM cùng chung sống tại nhà bố mẹ của bà VTM ở thôn Trung Màu, xã Trung Màu, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội được khoảng 04 năm, đến năm 1988 bà VTM sinh cháu Nguyễn Duy Bé, do anh em nhà bà VTM bất đồng trong cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày, nên ông NDC và bà VTM về nhà ông NDC ở thôn Gia Lâm, xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội ở được khoảng 03 tháng thì bà VTM bỏ về nhà bố mẹ đẻ của bà VTM ở thôn Trung Mầu, xã Trung Mầu, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội sống, còn ông NDC vẫn ở nhà ông ở xã Lệ Chi. Ông NDC đã nhiều lần gặp bà VTM và nói để bà về sống cùng ông nhưng bà VTM không đồng ý. Ông NDC xác định đến nay vợ chồng ông đã mỗi người ở một nơi và ly thân đã nhiều năm. Đến nay ông không còn tình cảm vợ, chồng với bà VTM và giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với bà VTM.

Về con chung: Ông NDC xác định ông và bà VTM có 02 con chung là anh Nguyễn Duy Bé, sinh năm 1988 và anh Nguyễn Duy Tuyên, sinh năm 1995. Anh Bé đã trưởng thành và không có nhược điểm về thể chất, tinh thần. Anh Tuyên đã chết năm 2006. Ông NDC không có yêu cầu gì về con chung.

Về tài sản chung: Ông NDC không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ chung vợ chồng: Vợ chồng ông không nợ ai và không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra ông NDC không còn yêu cầu nào khác, không trình bày nội dung nào khác.

Bị đơn – bà VTM: Tòa án đã triệu tập bà VTM và tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng bà VTM vẫn vắng mặt. Tại Biên bản lấy lời khai ngày13/8/2018 bà VTM khai: Bà kết hôn tự nguyện với ông NDC có làm thủ tục Đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội vào năm 1987. Sau khi kết hôn, bà và ông NDC chung sống với nhau được khoảng 04 năm thì hai vợ chồng ở riêng. Bà VTM đã về nhà mẹ đẻ ở thôn Trung Màu, xã Trung Màu, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội. Đến năm 1995 ông, bà đã có thêm con là cháu Tuyên nhưng đến năm 2006 cháu đã mất do chết đuối. Ông NDC có quan hệ với người khác nên bỏ vợ, bỏ con. Nay bà VTM xác định ông, bà đã ly thân không còn tình cảm gì với ông NDC nên đồng ý ly hôn với ông NDC.

Về con chung: Bà VTM xác định bà và ông NDC có 02 con chung là anh Nguyễn Duy Bé, sinh năm 1988 và anh Nguyễn Duy Tuyên, sinh năm 1995. Anh Bé đã trưởng thành và có gia đình riêng, anh Tuyên đã chết năm 13 tuổi. Bà VTM không có yêu cầu gì về con chung.

Đối với vụ án này Toà án không hòa giải được về quan hệ hôn nhân vì vắng mặt bị đơn. Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa vì vậy việc xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa ngày hôm nay:

Ông NDC vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với bà VTM và nội dung các lời khai mà ông đã trình bày tại Tòa án.

Bà VTM vắng mặt không có lý do.

Đại điện viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự và ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đều thực hiện đúng các quy định của pháp luật về thủ tục Tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm trước khi Hội đồng xét xử nghị án. Người tham gia tố tụng tại phiên tòa, Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Bị đơn không chấp hành nghiêm túc các quy định của pháp luật về Tố tụng dân sự thể hiện qua việc vắng mặt tại phiên tòa và quá trình tố tụng giải quyết vụ án không có lý do.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30.12.2016 quy định về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Xử: cho ông NDC được ly hôn với bà Vũ Thị Minh. Ông NDC thuộc diện hộ nghèo nên được miễn nộp tiền Án phí ly hôn sơ thẩm.

Về con chung: Không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

Tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền: Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28 – BLTTDS, vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân.

Trong vụ án, bị đơn là bà VTM có Đăng ký hộ khẩu thường trú và hiện nay đang cư trú tại huyện Gia Lâm nên căn cứ vào Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội.

Bị đơn, bà VTM đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không phải vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Ông NDC và bà VTM kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội ngày 04/12/1987. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Vợ, chồng chung sống hoà thuận được đến năm 1991 thì phát sinh mâu thuẫn vợ chồng.

[3]. Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ, chồng: Căn cứ vào những lời khai của ông NDC, bà VTM và các biên bản làm việc của Tòa án với Chính quyền địa phương. Hội đồng xét xử nhận định: Ông NDC và bà VTM trong quá trình chung sống đã phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là vào năm 1988 khi bà VTM sinh cháu Nguyễn Duy Bé thì ông NDC và bà VTM về thôn Gia Lâm, xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội ở do anh em nhà bà VTM bất đồng, môi trường sống không phù hợp. Sau khi sống cùng nhau được khoảng 03 tháng thì bà VTM tự ý bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn Trung Màu, xã Trung Màu, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội. Đến năm 1995 ông NDC, bà VTM đã có thêm con là cháu Tuyên nhưng đến năm 2006 cháu đã mất do chết đuối. Sau này ông NDC đã nhiều lần gọi bà VTM quay về ở với ông nhưng bà VTM không đồng ý và không quay về. Bà VTM cho rằng ông NDC có quan hệ với người phụ nữ khác. Ông NDC và bà VTM đã ở riêng và sống ly thân trong thời gian rất dài hai vợ chồng không ai quan tâm, chăm sóc đến nhau. Ông NDC và bà VTM đều xác định đến nay tình cảm vợ chồng không còn, yêu cầu xin được ly hôn.

Quá trình giải quyết vụ án, bà VTM đã có lời khai và đồng ý ly hôn với ông NDC. Tại Biên bản làm việc ngày 27/8/2018 với Ủy ban nhân dân xã Trung Mầu, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội cũng thể hiện việc ông NDC và bà VTM không còn chung sống với nhau đã lâu. Vì vậy, lời khai của ông NDC và bà VTM là có căn cứ.

Theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân gia đình quy định: Vợ chồng phải, thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình và xã hội. Như vậy, mục đích hôn nhân của vợ chồng của ông NDC và bà VTM không đạt được, đời sống chung đã chấm dứt. Do vậy, xét thấy cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông NDC là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4]. Về con chung: Ông NDC và bà VTM xác định ông bà có 02 con chung là anh Nguyễn Duy Bé, sinh năm 1988 và anh Nguyễn Duy Tuyên, sinh năm 1995. Anh Nguyễn Duy Bé đã trưởng thành và lập gia đình, có sức khỏe và phát triển bình thường. Anh Nguyễn Duy Tuyên chết năm 2006.

Ông NDC và bà VTM đều không có yêu cầu gì về con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản chung và công nợ chung vợ chồng: Ông NDC và bà VTM không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về án phí: Ông NDC làm đơn khởi kiện vụ án xin ly hôn nhưng gia đình thuộc diện hộ nghèo nên ông NDC được miễn toàn bộ tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 57 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Căn cứ Luật thi hành án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông NDC đối với bà VTM. Ông NDC được ly hôn với bà VTM.

2.Về con chung: Xác định ông NDC và bà VTM có 02 con chung là anh Nguyễn Duy Bé, sinh năm 1988 và anh Nguyễn Duy Tuyên, sinh năm 1995. Anh Nguyễn Duy Bé đã trưởng thành, có sức khỏe và phát triển bình thường. Anh Nguyễn Duy Tuyên chết năm 2006. Ông NDC và bà VTM đều không có yêu cầu gì về con chung nên không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Ông NDC được miễn 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ông NDC đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số AA/2010/00003784, ngày 06/7/2018 tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện Gia Lâm nay được trả lại số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng này. Ông NDC không phải nộp tiền án phí.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn – ông NDC, vắng mặt bị đơn – bà VTM. Báo cho ông NDC có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà VTM vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2018/HNGĐ-ST ngày 12/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:31/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về