Bản án 307/2019/HS-ST ngày 27/09/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 307/2019/HS-ST NGÀY 27/09/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 27 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 268/2019/HS-ST ngày 13 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 313/2019/HSST-QĐ ngày 12 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Châu Hùng Ph, sinh năm 1976 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số 39/21 khu phố Đ T, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Châu Văn Qu (đã chết) và bà Châu Thị Ph, sinh năm 1952; bị cáo có 02 em ruột, lớn sinh năm 1978, nhỏ sinh năm 1981; bị cáo có vợ tên là Lê Thị Kim H, sinh năm 1978, có 02 con ruột, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 12/02/2019 đến ngày 21/02/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

2. Nguyễn Minh Th (tên gọi khác: L), sinh năm 1977 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số 33/2A khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Xây dựng; trình độ học vấn: 4/12 ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Minh V (đã chết) và bà Trần Thị L, sinh năm không rõ; bị cáo có 04 anh em ruột, lớn nhất sinh năm 1976, nhỏ nhất sinh không rõ; bị cáo có vợ tên Trương Thị Thúy O, sinh năm 1977; có 02 con ruột, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 12/02/2019 đến ngày 21/02/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

3. Trương Thị Thúy O, sinh năm 1977 tại tỉnh Đồng Nai; thường trú: Số 33/2A khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trương Văn S, sinh năm 1930 và bà Trương Thị Đ, sinh năm 1938; bị cáo có 07 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm không rõ, nhỏ nhất sinh năm 1981; bị cáo có chồng tên là Nguyễn Minh Th, sinh năm 1977; có 02 con ruột, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

4. Nguyễn Minh Ng (tên gọi khác: S đen), năm 1962 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số 9/2A khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Chăn nuôi; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Minh R, sinh năm 1929 và bà Võ Thị Gi, sinh năm 1930; bị cáo có 05 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1954, nhỏ nhất sinh năm 1967; bị cáo có vợ tên là Châu Thị R, sinh năm 1962, có 02 con ruột, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 12/02/2019 đến ngày 21/02/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

5. Huỳnh Tấn Ph, năm 1978 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Số 37 đường B, khu phố N, phường B Tr Đ, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Tổ 16A, khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Thợ sơn nước; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Huỳnh Tấn Ph, sinh năm 1934 và bà Bùi Thị L, sinh năm 1934; bị cáo có 06 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm 1964, nhỏ nhất sinh năm 1974; bị cáo có vợ tên là Mai Xuân Y, sinh năm 1981, có 02 ruột, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 12/02/2019 đến ngày 21/02/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

6. Cao Thị Thanh Th, năm năm 1976 tại tỉnh không rõ; thường trú: Số 13/2A khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông không rõ và bà không rõ; bị cáo có chồng tên là Nguyễn Minh S, sinh năm 1976, có 02 con ruột, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 12/02/2019 đến ngày 21/02/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

7. Phan Thị Ngọc Đ, năm năm 1978 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Số 27/6A khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Phan Văn Th, sinh năm 1947 và bà Nguyễn Thị Ch, sinh năm 1953; bị cáo có 02 em ruột, lớn sinh năm 1982, nhỏ sinh năm 1984; bị cáo có chồng tên là Nguyễn Văn Gi, sinh năm 1968, có 02 con ruột, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 12/02/2019 đến ngày 21/02/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

8. Trần Văn T, năm năm 1972 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số 52/13 khu phố T, phường V Ph, thị xã Th A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Thợ sơn nước; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn Dộp, sinh năm 1938 và bà La Thị Ng, sinh năm 1938; bị cáo có 05 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm không rõ, nhỏ nhất sinh năm 1980; bị cáo có vợ tên là Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1971, có 01 con ruột, sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 12/02/2019 đến ngày 21/02/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

9. Nguyễn Minh Qu, sinh năm 1989 tại tỉnh An Giang; thường trú: Ấp V Th, xã V H, huyện Ch Th, tỉnh An Giang; chỗ ở: Số 1/471 khu phố H L 2, phường Th Gi, thị xã Th A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Thợ sơn nước; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn, sinh năm 1952 và bà Phan Thị Qu, sinh năm 1969; bị cáo có 02 em ruột, lớn sinh năm 1989, nhỏ sinh năm 1990; bị cáo có vợ tên là Lương Thị Th, sinh năm 1990, có 02 con ruột, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 12/02/2019 đến ngày 21/02/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

10. Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1998 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số 13/2A khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Minh S, sinh năm 1976 và bà Cao Thị Thanh Th, sinh năm 1976; bị cáo có 01 em ruột, sinh năm 2004; bị cáo có chồng tên là Chen J, sinh năm 1987, có 01 con ruột, sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

11. Phạm Công D, sinh năm 1977 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Số 42/2A khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Phạm Công Ch (đã chết) và bà Trần Thị L, sinh năm 1930; bị cáo có 03 anh em ruột, lớn nhất sinh năm 1974, nhỏ nhất sinh năm 1985; bị cáo có vợ tên là Trần Thị L, sinh năm 1979, có 03 con ruột, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Minh S, sinh năm 1976; thường trú: Số 13/2A khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng: Ông Võ Thanh H, sinh năm 1967; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 12/02/2019, Nguyễn Minh Th và Trương Thị Thúy O tổ chức cúng khai trương thợ hồ tại nhà số 33/2A khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, Th có mời một số anh em, bạn bè đến ăn uống. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày thì Châu Hùng Ph rủ đánh bài cào 03 lá tính điểm thắng thua bằng tiền, hình thức chơi, người cầm cái chia mỗi tụ 02 con bài tính điểm, ai điểm cao thì được ăn tương ứng với số tiền đã đặt. Số tiền đặt mỗi ván ăn thua từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng. Sau đó, Ph đi mua 01 bộ bài 52 lá đem về nhà Th để cùng đánh bài thắng thua bằng tiền. Những người tham gia đánh bài gồm Nguyễn Minh Ng, Châu Hùng Ph, Huỳnh Tấn Ph, Cao Thị Thanh Th, Phan Thị Ngọc Đ, Trần Văn T, Nguyễn Minh Th, Trương Thị Thúy O, Nguyễn Minh Qu, Nguyễn Thị Thanh T và Phạm Công D. Đến 15 giờ cùng ngày thì lực lượng Công an vào kiểm tra phát hiện bắt quả tang Ng, Ph, Đ, Th, T và Ph đang đánh bài thắng thua bằng tiền, cơ quan Công an thu giữ 01 bộ bài tây 52 lá và 5.350.000 đồng. Riêng Th, O, Qu, D và T tham gia đánh bài thắng thua bằng tiền nhưng nghỉ trước đó.

Quá trình điều tra xác định được như sau:

- Nguyễn Minh Ng mang theo 1.500.000 đồng và sử dụng số tiền trên vào việc đánh bạc. Quá trình chơi thắng 250.000 đồng, khi bị bắt Công an thu giữ trên chiếu bạc 1.750.000 đồng;

- Châu Hùng Ph mang theo 1.000.000 đồng và sử dụng số tiền trên vào việc đánh bạc. Quá trình chơi thắng 700.000 đồng, khi bị bắt Công an thu giữ trên chiếu bạc 1.700.000 đồng.

- Huỳnh Tấn Ph mang theo 100.000 đồng và sử dụng số tiền trên vào việc đánh bạc. Quá trình chơi không thắng, không thua, khi bị bắt Công an thu giữ trên chiếu bạc 100.000 đồng.

- Cao Thị Thanh Th mang theo 4.000.000 đồng và sử dụng số tiền trên vào việc đánh bạc. Quá trình chơi thắng 1.000.000 đồng, khi bị bắt Công an thu giữ trên chiếu bạc 1.000.000 đồng và trong người 4.000.000 đồng.

- Phan Thị Ngọc Đ mang theo 3.000.000 đồng và sử dụng số tiền 1.000.000 đồng việc đánh bạc. Quá trình chơi thua 700.000 đồng, khi bị bắt Công an thu giữ trên chiếu bạc 300.000 đồng và trong người 2.000.000 đồng.

- Trần Văn T mang theo 800.000 đồng và sử dụng số tiền trên vào việc đánh bạc. Quá trình chơi thua 200.000 đồng, khi bị bắt Công an thu giữ trên chiếu bạc 500.000 đồng và trong người 100.000 đồng.

- Nguyễn Minh Th mang theo 3.000.000 đồng và sử dụng số tiền trên vào việc đánh bạc. Quá trình chơi thua hết 3.000.000 đồng thì Thành không chơi nữa.

- Trương Thị Thúy O mang theo 3.580.000 đồng và sử dụng số tiền 500.000 đồng vào việc đánh bạc. Quá trình chơi thua hết 500.000 đồng thì Oanh không chơi nữa và ngồi ngoài xem.

- Nguyễn Thị Thanh T mang theo 300.000 đồng và sử dụng số tiền trên vào việc đánh bạc. Quá trình chơi thua thắng 550.000 đồng thì nghỉ và đi về.

- Phạm Công D, quá trình làm việc D khai nhận, không nhớ có tham gia đánh bạc hay không nhưng căn cứ vào lời khai của Châu Hùng Ph, Huỳnh Tấn Ph, Cao Thị Thanh Th, Nguyễn Minh Th, Trương Thị Thúy O, Nguyễn Minh Ng, Nguyễn Thị Thanh Th và người làm chứng Võ Thanh H, điều xác định ngày 12/02/2019 tại nhà của Nguyễn Minh Th thì Phạm Công D có tham gia đánh bạc.

Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 12.700.000 đồng.

Vật chứng thu giữ: 10.300.000 đồng và 01 (một) bộ bài tây 52 lá.

Tại Bản cáo trạng số: 267/CT-VKS-DA ngày 23 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Minh Ng, Châu Hùng Ph, Huỳnh Tấn Ph, Cao Thị Thanh Th, Phan Thị Ngọc Đ, Trần Văn T, Nguyễn Minh Th, Trương Thị Thúy O, Nguyễn Minh Qu, Nguyễn Thị Thanh T và Phạm Công D phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đồng thời đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt các bị cáo Nguyễn Minh Ng, Châu Hùng Ph, Huỳnh Tấn Ph, Cao Thị Thanh Th, Phan Thị Ngọc Đ, Trần Văn T và Phạm Công D, mỗi bị cáo từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt các bị cáo Nguyễn Minh Th, Trương Thị Thúy O, Nguyễn Minh Qu, Nguyễn Thị Thanh T, mỗi bị cáo từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

*Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng là tang vật sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 10.300.000 đồng các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, xử lý vật chứng đồng thời các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 13 giờ ngày 12/02/2019, tại nhà của Nguyễn Minh Th địa chỉ 33/2A khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Nguyễn Minh Ng, Châu Hùng Ph, Huỳnh Tấn Ph, Cao Thị Thanh Th, Phan Thị Ngọc Đ, Trần Văn T, Nguyễn Minh Th, Trương Thị Thúy O, Nguyễn Minh Qu, Nguyễn Thị Thanh T và Phạm Công D rủ nhau đánh bạc dưới hình thức đánh bài cào 03 lá tính điểm thắng thua bằng tiền, mỗi ván đặt tiền ăn thua từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng. Tổng số tiền các bị cáo dùng đánh bạc là 12.700.000 đồng.

[3] Như vậy, hành vi của các bị cáo Nguyễn Minh Ng, Châu Hùng Ph, Huỳnh Tấn Ph, Cao Thị Thanh Th, Phan Thị Ngọc Đ, Trần Văn T, Nguyễn Minh Th, Trương Thị Thúy O, Nguyễn Minh Qu, Nguyễn Thị Thanh T và Phạm Công D đánh bạc dưới hình thức đánh bài cào 03 lá tính điểm thắng thua bằng tiền, tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc 12.700.000 đồng đã đủ yếu tố cầu thành về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số 284/CT-VKS-DA ngày 12 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện tuy ít nghiêm trọng, nhưng đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm trật tự công cộng, trật tự xã hội. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được đánh bạc dưới mọi hình thức ăn thua bằng tiền nhằm sát phạt lẫn nhau đều vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc, xem xét tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo đủ để giáo dục cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Xét đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng là giản đơn không có sự cấu kết chặt chẽ, không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội nên không xem là phạm tội có tổ chức. Các bị cáo tham gia với vai trò là người thực hành, bị cáo Nguyễn Minh Th và Trương Thị Thúy O cho mượn nhà của mình làm nơi để đánh bài, bị cáo Châu Hùng Ph là người đi mua bài để đánh bạc.

[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị Cáo Nguyễn Minh Th, Trương Thị Thúy O, Nguyễn Thị Thanh T, Nguyễn Minh Qu đã đầu thú về hành vi phạm tội của mình, đây là tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[8] Về nhân thân: Các bị cáo là người có nhân thân tốt thể hiện các bị cáo là người chưa có tiền án tiền sự và là người lao động. Bị cáo Cao Thị Thanh Th, Nguyễn Minh Qu, Phạm Công D là người có trình độ học vấn thấp, bị cáo Nguyễn Thị Thanh T đang nuôi con nhỏ nên cũng xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

[9] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét các bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nhất thời phạm tội, có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng, là công nhân lao động đồng thời trong thời gian tại ngoại chấp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo, không cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng đủ sức răng đe, giáo dục các bị cáo. Đồng thời do áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo nên cần hủy bỏ các Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 72, 73, 74, 75, 76, 77, 78, 79, 80, 81, 82/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 13 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử đã áp dụng hình phạt chính là phạt tiền đối với các bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[10] Về xử lý vật chứng: Xét số tiền 10.300.000 đồng các bị cáo dùng để đánh bạc cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước và 01 (một) bộ bài tây 52 lá các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[11] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Minh Ng, Châu Hùng Ph, Huỳnh Tấn Ph, Cao Thị Thanh Th, Phan Thị Ngọc Đ, Trần Văn T, Nguyễn Minh Th, Trương Thị Thúy O, Nguyễn Minh Qu, Nguyễn Thị Thanh T và Phạm Công D phạm tội “Đánh bạc”.

1.1 Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Châu Hùng Ph 22.000.000 (hai mươi hai triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Ng 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Tấn Ph 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Cao Thị Thanh Th 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Phan Thị Ngọc D 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Trần Văn T 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Phạm Công D 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

1.2 Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Th 22.000.000 (hai mươi hai triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Trương Thị Thúy O 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Qu 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh T 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

Hủy bỏ các Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 72, 73, 74, 75, 76, 77, 78, 79, 80, 81, 82/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 13 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 10.300.000 (mười triệu ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tiền số 01234 ngày 12 tháng 8 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bộ bài tây 52 lá.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/8/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự Dĩ An, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Nguyễn Minh Ng, Châu Hùng Ph, Huỳnh Tấn Ph, Cao Thị Thanh Th, Phan Thị Ngọc Đ, Trần Văn T, Nguyễn Minh Th, Trương Thị Thúy O, Nguyễn Minh Qu, Nguyễn Thị Thanh T và Phạm Công D, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 307/2019/HS-ST ngày 27/09/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:307/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về