Bản án 306/2018/HS-ST ngày 21/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, TP.HCM

BẢN ÁN 306/2018/HS-ST NGÀY 21/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 299/2018/TLST-HS ngày 09/11/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 300/2018/QĐXXST-HS ngày 09/11/2018, đối với bị cáo:

1. Lê Văn M; sinh năm 1995; tại: Bến Tre; hộ khẩu thường trú: 32/3, ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre; cư trú: 40 đường x, khu phố y, phường z, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn Ch; và bà: Võ Thị L; vợ: Trần Thị D; có 01 con sinh năm 2018; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giam ngày: 07/6/2018. (Có mặt) 2. Trương Chí B; sinh năm 1995; tại: Sóc Trăng; hộ khẩu thường trú: Ấp X, xã Y, thị xã Z, tỉnh Sóc Trăng; cư trú: 839 Tỉnh lộ x, khu phố y, phường T, quân Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trương Văn Th; và bà: Huỳnh Thị D; chưa có vợ con; tiền án: không; tiền sự: Ngày 29/02/2016, bị Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc 12 tháng, kể từ ngày 20/12/2015 đến 20/12/2016; Nhân thân: Ngày 22/5/2013, bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; bị bắt, tạm giam ngày: 07/6/2018. (Có mặt)

- Người làm chứng: Anh Trần Quốc K, sinh năm 1997. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Khoảng 06 giờ 15 ngày 07/6/2018, Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về Ma túy, Công an quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh tuần tra đến trước nhà số 67/5 đường x, khu phố y, phường z, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện Lê Văn M và Trương Chí B có biểu hiện nghi vấn nên kiểm tra bắt quả tang có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Thu giữ gồm:

- 02 (hai) gói nylon hàn kín bên trong có chứa tinh thể không màu. Qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,1398 và gói 2 có khối lượng 0,2440g, loại Methamphetamine.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia số thuê bao: 0963993637.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng số thuê bao: 0937280400.

- 01 (một) xe mô tô biển số 71C4-14175, số khung RLCE55P100Y121294; số máy 55P1-121309.

Bản kết luận giám định số 1011/KLGĐ-H ngày 12/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m1 cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng l,1398g loại Methamphetamine.

- Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m2 cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2440g, loại Methamphetamine (bút lục 27).

Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Thủ Đức, M và B khai nhận là người nghiện ma túy tổng hợp. Khoảng 5 giờ ngày 07/6/2018, B đang ở nhà trọ phường T, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh thì nhận được điện thoại di dộng của người nghiện tên Nghĩa (Không rõ lai lịch) gọi hỏi đặt mua 1.000.000 đồng ma túy và hẹn đến nhà ở phường B, quận Thủ Đức để sử dụng chung, sau đó B gọi điện thoại di động cho M biết và đặt mua ma túy. Lúc này M đang ở nhà trọ ở phường B, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh gọi điện thoại di động đặt mua ma tuý của người thanh niên tên Anh (không rõ lai lịch) với giá 1.000.000 đồng/02 gói tại hẻm 74 Ngô Chí Quốc, phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi mua ma túy xong, M điều khiển xe mô tô biển số 71C4- 141.75 đến chở B đi gặp Nghĩa để sử dụng ma túy. Đến 6 giờ 15 ngày 07/06/2018, khi M điều khiển xe mô tô 71C4-141.75 chở B đến trước nhà số 67/5, Đường x, khu phố y, phường z, quận Thủ Đức, chưa kịp gặp Nghĩa thì bị bắt. B hùn 300.000 đồng, Nghĩa hùn 700.000 đồng (nhưng chưa đưa tiền cho M) và kêu M đi mua ma túy về sử dụng chung, ngoài ra B còn mua ma túy của người phụ nữ tên Phương (không rõ lai lịch) ở cầu vượt ngã tư G với giá từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng/01 gói về sử dụng với Nghĩa (nhưng không nhớ rõ thời gian). B khai lần đầu kêu M mua ma túy về nhà Nghĩa để sử dụng nhưng chưa sử dụng được thì bị bắt.

Vật chứng:

- 01 (một) gói niêm phong ghi số 1011/18 có chữ ký của Giám định viên Lê Thị Hằng, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia số thuê bao: 0963.993.637.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng số thuê bao: 0937.280.400.

- 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha loại Exciter màu xanh biển số 71C4-141.75, số khung RLCE55P 100Y121294; số máy 55P1-121309.

Kết luận giám định giám định số 10933 ngày 28/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận số khung, số máy, không thay đổi.

Qua xác minh biển số 71C4-14175 là xe hiệu Honda Wave do ông Dương Minh L ở khu phố y, thị trấn z, huyện C, tỉnh Bến Tre đứng tên chủ sở hữu, ông L bán cho anh Đặng Thanh Ph ngụ tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre, sau đó anh Ph cho anh T (bạn của Ph) mượn để đi lại và bị kẻ gian lấy trộm.

Qua xác minh số khung RLCE55P 100Y121294; số máy 55P1-121309 thì không xác định được chủ sở hữu.

Lê Văn M khai xe trên mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch) tại chợ đầu mối Tam Bình với giá 15.000.000 đồng bằng giấy viết tay (đã bị thất lạc) và sử dụng đến ngày 07/6/2018 thì bị bắt.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn M, Trương Chí B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng truy tố.

[2] Bản Cáo trạng số 302/CT-VKSTĐ ngày 05/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Lê Văn M, Trương Chí B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Lê Văn M, Trương Chí B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo M, bị cáo B từ 01 năm đến 02 năm tù, vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

Các bị cáo không tranh luận hoặc bào chữa gì. Các bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo M ăn năn, hối cải, xin hưởng án nhẹ, bị cáo B xin hưởng án nhẹ, bị cáo rất ăn năn, hối cải.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Lê Văn M, Trương Chí B phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định các bị cáo Lê Văn M, Trương Chí B đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, với khối lượng ma túy bị cáo bị bắt quả tang theo kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng tổng cộng 1,3838 gram, loại Methamphetamine. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Lê Văn M, Trương Chí B đã phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, do tính chất đặc biệt của chất ma túy có thể gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội. Nhà nước ta cũng như cả thế giới đều ra sức đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy, mọi hành vi trái pháp luật liên quan đến ma túy đều bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc nếu có vi phạm. Vì động cơ thỏa mãn cơn nghiện, các bị cáo đã thực hiện hành vi cất giữ, tàng trữ một lượng ma túy nhất định, thể hiện các bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật của nhà nước. Về nhân thân, bị cáo B có nhân thân xấu, đã bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc mà vẫn tái nghiện. Vì vậy, cần xử lý bị cáo thật nghiêm, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của từng bị cáo, để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và nêu gương phòng ngừa chung.

[3] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Do hoàn cảnh của các bị cáo khó khăn, nên Hội đồng xét xử xem xét và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) gói niêm phong ghi số 1011/18 có chữ ký của Giám định viên Lê Thị Hằng, bên trong là ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia số thuê bao: 0963.993.637, 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng số thuê bao: 0937.280.400, các bị cáo sử dụng vào việc liên lạc phạm tội, cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha loại Exciter màu xanh biển số 71C4-141.75, số khung RLCE55P 100Y121294; số máy 55P1-121309. Qua xác minh biển số 71C4-14175 là của xe khác, đã bị mất trộm, số khung RLCE55P 100Y121294; số máy 55P1-121309 thì không xác định được chủ sở hữu. Xét thấy xe không xác định được chủ sở hữu, nên cần thông báo tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của chiếc xe trên, nếu không tìm được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu chiếc xe để nộp ngân sách nhà nước. Riêng biển số biển số 71C4-141.75 tịch thu tiêu huỷ.

[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Lê Văn M, Trương Chí B phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý - Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt:

1. Bị cáo Lê Văn M 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/06/2018.

2. Bị cáo Trương Chí B 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/06/2018.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự,

+ Tịch thu tiêu huỷ: 01 (một) gói niêm phong ghi số 1011/18 có chữ ký của Giám định viên Lê Thị Hằng, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia số thuê bao: 0963.993.637, 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng số thuê bao: 0937.280.400

+ Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật để tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của mô tô hiệu Yamaha loại Exciter màu xanh số khung RLCE55P 100Y121294; số máy 55P1-121309. Hết thời hạn 6 tháng mà không tìm được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu chiếc xe để nộp ngân sách nhà nước.

+ Tịch thu tiêu huỷ: biển số 71C4-141.75.

(Phiếu nhập kho số 35, 36 ngày 07/11/2018, của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức).

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, mỗi bị cáo Lê Văn M, Trương Chí B chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 306/2018/HS-ST ngày 21/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:306/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về